Context of Hà Lan

Hà Lan hay Hòa Lan (tiếng Hà Lan: Nederland [ˈneːdərˌlɑnt]  ( nghe)) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire, Sint Eustatius và Saba). Phần thuộc châu Âu của Hà Lan gồm có 12 tỉnh, giáp với Đức về phía đông, Bỉ về phía nam, và biển Bắc về phía tây bắc; có biên giới hàng hải với Bỉ, Anh và Đức. Năm thành phố lớn nhất của Hà Lan là Amsterdam, Rotterdam, Den Haag (La Haye), Utrecht và Eindhoven. Amsterdam là thành phố thủ đô, song trụ sở của nghị viện và chính phủ đặt tại Den Haag. Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu và là cảng lớn nhất bên ngoài Đông Á.

Hà Lan có địa hình thấp và bằng phẳng, chỉ có khoảng 50% diện tích đất nằm cao hơn 1 m so với mực nước biển. Hầu hết diện tích dưới mực nước...Xem thêm

Hà Lan hay Hòa Lan (tiếng Hà Lan: Nederland [ˈneːdərˌlɑnt]  ( nghe)) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire, Sint Eustatius và Saba). Phần thuộc châu Âu của Hà Lan gồm có 12 tỉnh, giáp với Đức về phía đông, Bỉ về phía nam, và biển Bắc về phía tây bắc; có biên giới hàng hải với Bỉ, Anh và Đức. Năm thành phố lớn nhất của Hà Lan là Amsterdam, Rotterdam, Den Haag (La Haye), Utrecht và Eindhoven. Amsterdam là thành phố thủ đô, song trụ sở của nghị viện và chính phủ đặt tại Den Haag. Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu và là cảng lớn nhất bên ngoài Đông Á.

Hà Lan có địa hình thấp và bằng phẳng, chỉ có khoảng 50% diện tích đất nằm cao hơn 1 m so với mực nước biển. Hầu hết diện tích dưới mực nước biển là đất cải tạo. Từ cuối thế kỷ XVI, nhiều khu vực rộng lớn được cải tạo từ biển và hồ, chúng chiếm gần 17% diện tích đất hiện nay của quốc gia. Hà Lan có mật độ dân số trên 400 người/km², nếu không tính mặt nước thì sẽ hơn 500 người/km², thuộc vào hàng các quốc gia có mật độ dân số dày đặc nhất thế giới. Tuy vậy, Hà Lan là quốc gia xuất khẩu nông sản và thực phẩm lớn thứ nhì thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ. Hà Lan là quốc gia thứ ba trên thế giới có các đại biểu được bầu cử để kiểm soát hành động của chính phủ; quốc gia này có thể chế dân chủ nghị viện và quân chủ lập hiến từ năm 1848. Hà Lan có lịch sử lâu dài về khoan dung xã hội và thường được nhìn nhận là một quốc gia tự do, Hà Lan đã hợp pháp hoá mại dâm, an tử và hôn nhân đồng giới.

Hà Lan là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Khu vực đồng euro, G-10, NATO, OECD và WTO, nằm trong Khu vực Schengen và Liên minh Benelux. Hà Lan là nơi đặt trụ sở của năm toà án quốc tế như Tòa án Trọng tài thường trực và Tòa án Công lý Quốc tế, trong đó có bốn toà án đặt tại Den Haag, do đó thành phố này được mệnh danh là "thủ đô pháp luật thế giới." Hà Lan đứng thứ hai trong chỉ số tự do báo chí năm 2016 của Phóng viên không biên giới. Hà Lan có nền kinh tế hỗn hợp dựa trên thị trường, đứng thứ 17 về chỉ số tự do kinh tế năm 2013. Hà Lan có GDP PPP bình quân cao thứ 13 thế giới vào năm 2016 theo số liệu của IMF. Năm 2017, Báo cáo Hạnh phúc thế giới của Liên Hợp Quốc xếp Hà Lan đứng thứ sáu, phản ánh chất lượng sinh hoạt cao tại đây. Hà Lan là một nhà nước phúc lợi hào phóng, cung cấp chăm sóc y tế phổ quát, giáo dục công cộng và hạ tầng tốt, và nhiều phúc lợi xã hội.

More about Hà Lan

Basic information
  • Currency Euro
  • Tên bản địa Nederland
  • Calling code +31
  • Internet domain .nl
  • Speed limit 130
  • Mains voltage 230V/50Hz
  • Democracy index 8.96
Population, Area & Driving side
  • Population 17590672
  • Diện tích 41543
  • Driving side right
Lịch sử
  • Lịch sử Sơ khởi

    Dấu tích loài người cổ nhất (Neanderthal) được phát hiện trên vùng đất cao gần Maastricht, được cho là có niên đại 250.000 năm trước.[1] Đến khi kết thúc kỷ băng hà, những người du cư thuộc văn hoá Hamburg (khoảng 13.000–10.000 TCN) thời đồ đá cũ cuối muộn tiến hành săn bắn tuần lộc trong khu vực bằng giáo, đến văn hoá Ahrensburg (khoảng 11.200–9.500 TCN) thì dùng cung tên. Xuồng cổ nhất trên thế giới được phát hiện tại Drenthe, của các bộ lạc có vẻ thuộc về văn hoá Maglemosia (khoảng 8000 TCN) thời đồ đá giữa.[2]

    ...Xem thêm
    Lịch sử Sơ khởi

    Dấu tích loài người cổ nhất (Neanderthal) được phát hiện trên vùng đất cao gần Maastricht, được cho là có niên đại 250.000 năm trước.[1] Đến khi kết thúc kỷ băng hà, những người du cư thuộc văn hoá Hamburg (khoảng 13.000–10.000 TCN) thời đồ đá cũ cuối muộn tiến hành săn bắn tuần lộc trong khu vực bằng giáo, đến văn hoá Ahrensburg (khoảng 11.200–9.500 TCN) thì dùng cung tên. Xuồng cổ nhất trên thế giới được phát hiện tại Drenthe, của các bộ lạc có vẻ thuộc về văn hoá Maglemosia (khoảng 8000 TCN) thời đồ đá giữa.[2]

     Sự phân bố của các nhóm phương ngữ gốc Germanic ở Châu Âu vào khoảng năm 0-100 sau Công nguyên:
      German Bắc;
      German Biển Bắc;
      German Weser-Rhine;
      German Elbe;
      German Đông.

    Từ năm 800 TCN trở đi, văn hoá Hallstatt của người Celt thuộc thời đồ sắt trở nên có ảnh hưởng, thay thế văn hoá Hilversum (1800–800 TCN). Quặng sắt trở thành một thước đo thịnh vượng, và hiện diện khắp khu vực, bao gồm cả quặng sắt nâu. Những người thợ rèn qua lại giữa các khu dân cư và mang theo đồng điếu và sắt để chế tạo công cụ theo yêu cầu. Vorstengraf (mộ của quốc vương) tại Oss (700 TCN) được phát hiện trong một gò mộ, có kích cỡ lớn nhất trong thể loại này tại Tây Âu và có chứa một thanh kiếm sắt được dát vàng và san hô.

    Khí hậu xấu đi tại Scandinavia vào khoảng năm 850 TCN, và tệ hơn nữa vào khoảng năm 650 TCN, điều này có thể đã khiến các bộ lạc German di cư từ phía bắc. Đến khi cuộc di cư này hoàn tất vào khoảng năm 250 TCN, đã nổi bật lên một vài nhóm văn hoá và ngôn ngữ nói chung.[3][4] Người Ingaevones hay German Biển Bắc cư trú tại phần phía bắc của Các vùng đất thấp, sau đó họ phát triển thành người Frisii và người Sachsen (Saksen) ban đầu.[4] Một nhóm thứ nhì gọi là người German Weser-Rhine (hay Istvaeones) bành trướng dọc trung du sông Rhine (Rijn) và Weser, và cư trú tại Các vùng đất thấp phía nam các sông lớn. Nhóm này gồm các bộ lạc cuối cùng phát triển thành người Frank Salia.[4] Ngoài ra người Celt thuộc văn hoá La Tène (khoảng 450 TCN đến khi La Mã chinh phục) bành trướng trên một phạm vi rộng, bao gồm khu vực phía nam của Các vùng đất thấp. Một số học giả suy đoán rằng một bản sắc dân tộc và ngôn ngữ thứ ba, ngoài German và Celt, từng tồn tại trong khu vực cho đến thời La Mã, là văn hoá Nordwestblock thời đồ sắt,[5][6] cuối cùng bị hấp thụ vào người Celt tại phía nam và các dân tộc German đến từ phía đông.

    Trong Chiến tranh Gallia, khu vực phía nam và phía tây sông Rhine bị quân La Mã (Roma) chinh phục dưới quyền Julius Caesar từ 57 TCN đến 53 TCN.[6] Julius Caesar miêu tả hai bộ lạc Celt chính sống tại khu vực nay là miền nam Hà Lan là Menapii và Eburones. Sông Rhine trở thành biên giới phía bắc của La Mã vào khoảng năm 12. Các thị trấn đáng chú ý xuất hiện dọc biên giới giữa La Mã và người German: Nijmegen và Voorburg. Trong giai đoạn đầu của tỉnh Gallia Belgica thuộc La Mã, khu vực phía nam biên giới trở thành bộ phận của tỉnh Germania Inferior. Khu vực phía bắc sông Rhine là nơi cư trú của người Frisii, nằm ngoài quyền cai trị của La Mã, trong khi các bộ lạc German là Batavi và Cananefates phục vụ trong kỵ binh La Mã.[7] Người Batavi khởi nghĩa chống La Mã vào năm 69, song cuối cùng thất bại. Người Batavi sau đó hợp nhất với các bộ lạc khác thành bang liên người Frank Salia, có bản sắc xuất hiện vào nửa đầu của thế kỷ III.[8] Người Frank Salia xuất hiện trong các văn bản La Mã với vai trò là đồng minh cũng như đối thủ. Trước áp lực từ bang liên của người Sachsen từ phía đông, họ chuyển qua sông Rhine vào lãnh thổ La Mã trong thế kỷ IV, từ căn cứ mới tại West-Vlaanderen và tây nam Hà Lan họ tập kích eo biển Manche. Quân La Mã bình định khu vực, song không trục xuất người Frank, và đến thời kỳ Julianus (358), người Frank Salia được cho phép định cư với tư cách foederati (phiên quốc) tại Toxandria.[8] Sau khi điều kiện khí hậu xấu đi và người La Mã triệt thoát, người Frisii biến mất khỏi miền bắc Hà Lan, có lẽ bị buộc phải tái định cư trong lãnh thổ La Mã với tên gọi laeti vào khoảng 296. Vùng đất ven biển phần lớn vẫn không có người ở trong hai trăm năm sau.[9]

    Sơ kỳ trung cổ (411–1000)  Người Frank (màu xanh), Frisia (màu trắng), và Saxon (màu hồng), (thập niên 710).

    Sau khi chính quyền La Mã trong khu vực bị sụp đổ, người Frank bành trướng lãnh thổ thành nhiều vương quốc. Đến thập niên 490, Clovis I chinh phục và thống nhất toàn bộ các lãnh thổ này tại miền nam Hà Lan trong Vương quốc Frank, và từ đó tiếp tục các cuộc chinh phục đến Gaule (Pháp). Trong cuộc bành trướng này, nhóm người Frank di cư về phía nam cuối cùng tiếp nhận tiếng Latinh thông tục của cư dân địa phương.[4] Nhóm người Frank ở lại quê hương tại phía bắc (tức miền nam Hà Lan và Vlaanderen) duy trì nói tiếng Frank cổ, đến thế kỷ IX tiến hoá thành tiếng Hạ Franconia cổ hoặc tiếng Hà Lan cổ.[4] Xuất hiện biên giới giữa khu vực nói tiếng Hà Lan và nói tiếng Pháp.[4][10]

     Quá trình bành trướng của người Frank (481 đến 870).

    Về phía bắc của người Frank, điều kiện khí hậu tại bờ biển được cải thiện, và trong giai đoạn Di cư các vùng đất bị bỏ hoang lại có người định cư, hầu hết là người Sachsen song cũng có các nhóm liên hệ mật thiết với họ là người Angle, người Jute và người Frisii cổ.[11] Nhiều người chuyển sang Anh và được gọi là người Anglo-Saxon, song những người ở lại được gọi là người Frisia và ngôn ngữ của họ được gọi là tiếng Frisia, đặt theo vùng đất từng có người Frisii cư trú.[11] Tiếng Frisia được nói dọc toàn bộ bờ biển phía nam biển Bắc, và vẫn là ngôn ngữ có liên hệ mật thiết nhất với tiếng Anh trong số các ngôn ngữ còn tồn tại trên lục địa châu Âu. Đến thế kỷ VII, Vương quốc Frisia (650–734) xuất hiện với trung tâm quyền lực là Utrecht,[11][12] còn Dorestad là một điểm giao thương phồn thịnh.[13][14] Từ năm 600 đến khoảng năm 719, các thành phố thường là chiến trường giữa người Frisia và người Frank. Trong trận Boarn vào năm 734, người Frisia bị đánh bại sau một loạt cuộc chiến. Được người Frank chấp thuận, nhà truyền giáo người Anglo-Saxon Willibrord cải đạo Cơ Đốc cho người Frisia.

     Lotharingia sau 959; công quốc Moselle (Phía trên-Lotharingia) màu cam, công quốc còn lại (Phía dưới-Lotharingia). Lotharingia màu xanh lục. Đường viền ngôn ngữ màu đỏ chấm.

    Đế quốc Caroling của người Frank mô phỏng Đế quốc La Mã và kiểm soát phần lớn Tây Âu. Tuy nhiên, đến năm 843 nó phân chia thành ba bộ phận là Đông Frank, Trung Frank và Tây Frank. Hầu hết lãnh thổ Hà Lan ngày nay là bộ phận của Trung Frank, song đây là một vương quốc yếu và phải hứng chịu nhiều nỗ lực phân chia và sáp nhập của các láng giềng mạnh hơn. Trung Frank gồm các lãnh thổ từ Frisia tại phía bắc đến Vương quốc Ý tại phía nam. Khoảng năm 850, Lotharius I của Trung Frank thừa nhận một người Viking là Rorik của Dorestad là người cai trị hầu hết Frisia.[15] Đến khi Trung Frank bị phân chia vào năm 855, vùng đất phía bắc dãy Alpes được giao cho Lotharius II rồi được đặt tên là Lotharingia. Sau khi ông mất vào năm 869, Lotharingia bị phân chia thành Thượng Lotharingia và Hạ Lotharingia, Hạ Lotharingia gồm Các vùng đất thấp và về danh nghĩa trở thành bộ phận của Đông Frank vào năm 870, song trên thực tế nó nằm dưới quyền kiểm soát của người Viking, họ đột kích các thị trấn của người Frisia và Frank trên bờ biển Frisia và dọc các con sông. Các cuộc tấn công của người Viking khiến quyền thống trị của các lãnh chúa Pháp và Đức trong khu vực bị suy yếu. Kháng cự người Viking đến từ giới quý tộc địa phương, họ đạt được tầm vóc nhất định và đặt cơ sở cho việc giải thể Hạ Lotharingia thành các nhà nước bán độc lập. Một trong số các quý tộc địa phương này là Gerolf xứ Holland, ông đảm nhận quyền lãnh chúa tại Frisia sau khi ông giúp ám sát Godfrid, và quyền cai trị của người Viking kết thúc.

    Trung kỳ Trung cổ (1000–1384)

    Đế quốc La Mã Thần thánh (nhà nước kế thừa của Đông Frank và sau đó là Lotharingia) cai trị hầu hết vùng đất thấp trong thế kỷ X và XI, song không thể duy trì thống nhất chính trị. Các quý tộc có quyền lực tại địa phương đưa thành phố, bá quốc hoặc công quốc của họ thành các vương quốc cá nhân, ít có nhận thức về nghĩa vụ với hoàng đế. Holland, Hainaut, Vlaanderen, Gelre, Brabant và Utrecht ở trong tình trạng hầu như chiến tranh liên miên hoặc thành lập các liên minh cá nhân. Ngôn ngữ và văn hoá của hầu hết cư dân sống tại Bá quốc Holland ban đầu là của người Frisia. Do người Frank từ Vlaanderen và Brabant đến định cư, kết quả là khu vực nhanh chóng chuyển sang nói tiếng Hạ Franconia cổ (hay tiếng Hà Lan cổ). Phần còn lại của Frisia tại phía bắc (nay là Friesland và Groningen) tiếp tục duy trì độc lập của họ và có các thể chế riêng cũng như tức giận với việc áp đặt hệ thống phong kiến.

    Khoảng năm 1000, do một số bước phát triển về nông nghiệp, kinh tế khu vực bắt đầu phát triển với nhịp độ nhanh, và năng suất cao hơn cho phép người lao động canh tác thêm đất đai hoặc trở thành thương nhân. Các thị trấn phát triển quanh các tu viện và thành trì, và một giai cấp trung lưu làm nghề buôn bán bắt đầu phát triển trong các khu vực đô thị này, đặc biệt là tại Vlaanderen và sau đó là Brabant. Các thành phố giàu có bắt đầu mua các đặc quyền nhất định cho mình từ quân chủ. Trong thực tiễn, điều này có nghĩa là Brugge và Antwerpen trở thành các nước cộng hoà bán độc lập có quyền lợi riêng và sau đó phát triển thành những thành phố và cảng quan trọng hàng đầu tại châu Âu.

    Khoảng năm 1100, các nông dân từ Vlaanderen và Utrecht bắt đầu tiến hành tiêu nước và canh tác các vùng đất đầm lầy không có người ở tại miền tây Hà Lan, khiến Bá quốc Holland trở thành trung tâm quyền lực. Tước hiệu Bá tước Holland là vấn đề tranh chấp trong các cuộc chiến tranh Lưỡi câu và Cá tuyết (tiếng Hà Lan: Hoekse en Kabeljauwse twisten) từ năm 1350 đến năm 1490. Phe Cá tuyết gồm các thành phố thịnh vượng hơn, còn phe Lưỡi câu gồm giới quý tộc bảo thủ. Các quý tộc này mời Công tước Philip III của Bourgogne – là người đồng thời giữ tước hiệu Bá tước xứ Vlaanderen – đến chinh phục Holland.

    Hà Lan thuộc Bourgogne và Habsburg (1384–1581)  Trạn chiến bốn ngày, 1–4 tháng 6 năm 1666 (Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai) của Pieter Cornelisz van Soest.

    Hầu hết các thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp tại khu vực nay là Hà Lan và Bỉ thống nhất trong một liên minh cá nhân dưới quyền Philip III của Bourgogne vào năm 1433. Gia tộc Valois-Bourgogne và gia tộc Habsburg kế thừa họ cai trị Các vùng đất thấp trong giai đoạn từ năm 1384 đến năm 1581. Trước thời Bourgogne, người Hà Lan nhận dạng bản thân thông qua thị trấn họ sống hoặc công quốc hay bá quốc địa phương của họ. Trong giai đoạn Bourgogne, con đường hướng đến tính dân tộc bắt đầu. Những người cai trị mới bảo vệ các lợi ích mậu dịch của Hà Lan, ngành này sau đó phát triển nhanh chóng. Các hạm đội của Bá quốc Holland từng vài lần đánh bại hạm đội của Liên minh Hanse. Amsterdam phát triển và đến thế kỷ XV trở thành cảng giao thương chủ yếu tại châu Âu đối với lương thực từ vùng Baltic. Amsterdam phân phối lương thực đến các thành phố chính của Bỉ, miền bắc Pháp, và Anh. Hoạt động giao dịch này mang tính sống còn do Hà Lan không còn có thể sản xuất đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu nội địa. Việc tiêu nước khiến than bùn tại các vùng đất ngập nước trước kia giảm xuống mức quá thấp để duy trì tiêu nước.

    Dưới quyền Karl V của Gia tộc Habsburg, là người cũng cai trị Đế quốc La Mã Thần thánh và là Quốc vương Tây Ban Nha, toàn bộ các thái ấp tại khu vực Hà Lan ngày nay thống nhất trong Mười bảy tỉnh, lãnh địa này cũng bao gồm hầu hết Bỉ và Luxembourg ngày nay, cũng như một số vùng đất lân cận nay thuộc Pháp và Đức. Năm 1568, Chiến tranh Tám mươi Năm giữa Mười bảy tỉnh và quân chủ Tây Ban Nha Felipe II của họ bắt đầu. Đến năm 1579, phần phía bắc của Mười bảy tỉnh thành lập Liên minh Utrecht, họ cam kết trợ giúp lẫn nhau trong việc phòng thủ chống quân Tây Ban Nha.[16] Liên hiệp Utrecht được nhìn nhận là nền tảng của Hà Lan hiện đại. Năm 1581, các tỉnh miền bắc thông qua tuyên bố độc lập, theo đó các tỉnh chính thức phế truất Felipe II của Tây Ban Nha khỏi tư cách quân chủ cai trị tại các tỉnh miền bắc.[17] Felipe II không để cho người Hà Lan thành công dễ dàng, và chiến tranh tiếp tục cho đến năm 1648, khi Tây Ban Nha dưới quyền Quốc vương Felipe IV công nhận độc lập của bảy tỉnh phía bắc trong Hoà ước Münster. Tuy nhiên, một bộ phận của các tỉnh miền nam cũng trở thành thuộc địa trên thực tế của quốc gia mới này.

    Cộng hoà Hà Lan (1581–1795)

    Sau khi tuyên bố độc lập, các tỉnh Holland, Zeeland, Groningen, Friesland, Utrecht, Overijssel và Gelderland hình thành một bang liên. Toàn bộ các công quốc, lãnh địa và bá quốc này đều có quyền tự trị và có chính phủ riêng. Staten-Generaal là chính phủ bang liên, đặt tại Den Haag và gồm đại biểu từ các tỉnh. Khu vực Drenthe có dân cư thưa thớt cũng là bộ phận của nước cộng hoà, song không được xem là một tỉnh. Ngoài ra, nước cộng hoà chiếm giữ một số vùng đất từng thuộc Vlaanderen, Brabant và Limburg trong Chiến tranh Tám mươi Năm, chúng được gọi là các Vùng đất chung (Generaliteitslanden). Cư dân các Vùng đất chung chủ yếu là tín đồ Công giáo La Mã, các khu vực này không có một cấu trúc chính phủ của mình, và được sử dụng làm một vùng đệm giữa nước Cộng hoà Hà Lan và lãnh thổ Miền nam Các vùng đất thấp do Tây Ban Nha kiểm soát.[18]

     Quang cảnh trượt băng mùa đông gần thành phố Kampen, tranh của Hendrick Avercamp (thập niên 1620).

    Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan, kéo dài trong phần lớn thế kỷ XVII, Đế quốc Hà Lan phát triển thành một trong các cường quốc hàng hải và kinh tế chủ yếu của thế giới. Khoa học, quân sự và nghệ thuật (đặc biệt là hội họa) Hà Lan nằm trong nhóm được tôn vinh nhất thế giới. Đến năm 1650, Hà Lan sở hữu 16.000 thương thuyền.[19] Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Tây Ấn Hà Lan thành lập các thuộc địa và trạm mậu dịch trên khắp thế giới. Người Hà Lan định cư tại Bắc Mỹ từ khi thành lập Tân Amsterdam tại phần phía nam của đảo Manhattan vào năm 1614. Người Hà Lan lập thuộc địa Cape tại Nam Phi vào năm 1652, lập thuộc địa Suriname tại Nam Mỹ, lập thuộc địa Đông Ấn Hà Lan (nay là Indonesia) tại châu Á, và sở hữu trạm mậu dịch với phương Tây duy nhất tại Nhật Bản là Dejima.

    Nhiều sử gia kinh tế đánh giá Hà Lan là quốc gia tư bản hoàn thiện đầu tiên trên thế giới. Tại châu Âu thời cận đại, Hà Lan có thành phố mậu dịch giàu có nhất (Amsterdam) và sàn chứng khoán toàn thời gian đầu tiên. Óc sáng táo của các thương nhân dẫn đến xuất hiện các quỹ bảo hiểm và hưu trí, cũng như các hiện tượng kinh tế như chu kỳ bùng nổ-phá sản, bong bóng lạm phát tài sản, hội chứng hoa tulip 1636–1637, và nhà đầu cơ giá xuống đầu tiên trên thế giới là Isaac le Maire, ông làm giảm giá bằng cách bán phá giá cổ phiếu để rồi sau đó mua lại với giá thấp hơn.[20] Năm 1672 – trong lịch sử Hà Lan được gọi là Rampjaar (năm thảm hoạ) – Cộng hoà Hà Lan đồng thời tham chiến với Pháp, Anh và ba giáo phận Đức. Trên biển, người Hà Lan ngăn chặn thành công hải quân của Anh và Pháp tiến vào bờ biển phía tây. Tuy nhiên, trên bộ Hà Lan gần như bị chiếm lĩnh trước các đội quân Pháp và Đức đến từ phía đông. Người Hà Lan đảo ngược tình thế bằng cách làm ngập nhiều phần của Holland, song không bao giờ có thể khôi phục vinh quanh như trước đó. Hà Lan lâm vào tình trạng suy thoái về tổng thể trong thế kỷ XVIII, khi họ phải cạnh tranh về kinh tế với Anh, và trong nước thì diễn ra kình địch trường kỳ giữa hai phái chủ yếu trong xã hội là thế lực cộng hoà (Staatsgezinden) và những người ủng hộ stadhouder (quốc trưởng) là thân vương xứ Oranje (Prinsgezinden).[21]

    Cộng hoà Batavia và vương quốc (1795–1890)

    Nhờ ủng hộ quân sự của nước Pháp cách mạng, những người theo chế độ cộng hoà tại Hà Lan tuyên bố thành lập Cộng hoà Batavia, mô phỏng theo Cộng hoà Pháp và khiến Hà Lan trở thành một nhà nước đơn nhất vào ngày 19 tháng 1 năm 1795. Stadhouder (quốc trưởng) là Willem V xứ Oranje đào thoát sang Anh. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến năm 1810, nhà nước bù nhìn Vương quốc Hà Lan (Holland) được Napoléon Bonaparte lập ra và giao cho em trai ông là Louis Bonaparte cai quản để kiểm soát Hà Lan hiệu quả hơn. Tuy nhiên, Louis Bonaparte cố gắng phục vụ lợi ích của Hà Lan thay vì của anh trai mình, và bị buộc phải thoái vị vào ngày 1 tháng 7 năm 1810. Hoàng đế Napoléon phái một đội quân đến và Hà Lan trở thành một bộ phận của Đế quốc Pháp cho đến mùa thu năm 1813 sau khi Napoléon thất bại trong trận Leipzig.

     Vương tử Diponegoro quy phục Tướng quân De Kock khi kết thúc Chiến tranh Java vào năm 1830; tranh của Nicolaas Pieneman

    Willem Frederik là con trai của stadhouder cuối cùng, ông trở về Hà Lan vào năm 1813 và xưng là thân vương chủ quyền của Hà Lan. Hai năm sau, Đại hội Wien sáp nhập miền nam các Vùng đất thấp vào Hà Lan nhằm tạo ra một quốc gia mạnh trên biên giới phía bắc của Pháp. Willem Frederik đưa nước Hà Lan thống nhất này thành một vương quốc và xưng là Quốc vương Willem I. Ngoài ra, Willem I kế thừa chức Đại công tước Luxembourg trong vụ trao đổi với các tài sản của ông tại Đức. Tuy nhiên, miền nam các Vùng đất thấp đã tách biệt về văn hoá với miền bắc từ năm 1581, và họ tiến hành khởi nghĩa. Miền nam giành độc lập vào năm 1830 với quốc hiệu là Bỉ (được Hà Lan công nhận vào năm 1839), còn liên minh cá nhân giữa Hà Lan và Luxembourg bị cắt đứt vào năm 1890, khi Willem III mất trong khi không có người thừa kế là nam giới, còn luật kế vị của Luxembourg lại ngăn con gái ông là Nữ vương Wilhelmina trở thành nữ Đại công tước.

    Cách mạng Bỉ tại chính quốc và Chiến tranh Java tại Đông Ấn Hà Lan khiến Hà Lan đến bên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, người Hà Lan áp đặt chính sách hệ thống canh tác (cultuurstelsel) tại Đông Ấn Hà Lan vào năm 1830, theo đó 20% đất của các làng được dành cho các cây trồng của chính phủ nhằm xuất khẩu. Chính sách này khiến người Hà Lan có được lượng của cải khổng lồ và khiến thuộc địa này có thể tự cung tự cấp. Mặt khác, các thuộc địa tại Tây Ấn (Guiana thuộc Hà Lan cùng Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc) dựa nhiều vào nô lệ châu Phi, ước tính có đến hơn nửa triệu người châu Phi. Hà Lan bãi bỏ chế độ nô lệ vào năm 1863.[22] Tuy thế, chế độ nô lệ tại Suriname chỉ hoàn toàn bị bãi bỏ vào năm 1873, do luật quy định rằng có 10 năm chuyển tiếp.[23] Hà Lan cũng là một trong các quốc gia châu Âu cuối cùng tiến hành công nghiệp hoá, quá trình này diễn ra vào nửa cuối của thế kỷ XIX.

    Hiện đại  Rotterdam sau khi bị người Đức không kích vào năm 1940. "Tối hậu thư của Đức yêu cầu chỉ huy Rotterdam của Hà Lan ngừng bắn được chuyển cho ông ta lúc 10h30 ngày 14 tháng 5 năm 1940. Lúc 13h đến 22h, các máy bay ném bom của Đức đã thiêu rụi toàn bộ nội thành Rotterdam, giết chết 814 cư dân của nó." Bức ảnh được chụp sau khi loại bỏ tất cả các mảnh vỡ.

    Hà Lan duy trì được tính trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, một phần là nhờ việc nhập khẩu hàng hoá thông qua Hà Lan có ý nghĩa thiết yếu đối với tính sống còn của Đức, cho đến khi Hải quân Hoàng gia Anh phong toả vào năm 1916.[24] Đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Quốc xã xâm chiếm Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Cuộc không kích Rotterdam buộc các thành phần chính của quân đội Hà Lan đầu hàng bốn ngày sau đó. Trong quá trình chiếm đóng, có trên 100.000 người Do Thái Hà Lan[25] bị tập trung và chuyển đến các trại hành quyết của Đức Quốc xã. Các công nhân Hà Lan bị bắt đi lính để lao động cưỡng bách tại Đức, các thường dân kháng cự bị giết để trả thù cho các vụ tấn công vào binh sĩ Đức, và quốc gia bị cướp bóc thực phẩm. Tuy vậy, trên 20.000 phần tử phát xít Hà Lan gia nhập Waffen-SS,[26] chiến đấu trên Mặt trận phía Đông.[27] Ngày 8 tháng 12 năm 1941, chính phủ lưu vong Hà Lan tại Luân Đôn tuyên chiến với Nhật Bản,[28] song không thể ngăn người Nhật chiếm đóng Đông Ấn Hà Lan.[29] Năm 1944–45, Tập đoàn quân Canada số 1, gồm các binh sĩ Canada, Anh và Ba Lan, chịu trách nhiệm giải phóng phần lớn Hà Lan.[30] Sau thế chiến, người Hà Lan chiến đấu trong chiến tranh thực dân chống lại Cộng hoà Indonesia mới thành lập.

     Các cựu thủ tướng Wim Kok, Dries van Agt, Piet de Jong, Ruud Lubbers và Jan Peter Balkenende và Thủ tướng Mark Rutte, năm 2011

    Năm 1954, Hiến chương Vương quốc Hà Lan cải tổ cấu trúc chính trị của Hà Lan, đây là kết quả từ áp lực quốc tế về việc tiến hành phi thực dân hoá. Các thuộc địa của Hà Lan là Surinam, Curaçao và các lãnh thổ phụ thuộc, cùng với phần lãnh thổ tại châu Âu đều trở thành các quốc gia trong vương quốc, song Suriname độc lập vào năm 1975. Sau thế chiến, Hà Lan từ bỏ tính trung lập và đạt được các quan hệ mật thiết với các quốc gia láng giềng. Hà Lan là một trong các thành viên sáng lập của Benelux, NATO, Euratom và Cộng đồng Than Thép châu Âu, thể chế này sau đó tiến triển thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Liên minh châu Âu.

    Chính phủ khuyến khích xuất cư nhằm giảm mật độ dân số, kết quả là nửa triệu người Hà Lan rời khỏi đất nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai.[31] Trong các thập niên 1960 và 1970, Hà Lan có biến đổi lớn về xã hội và văn hoá, như ontzuiling nhanh chóng, nghĩa là suy tàn việc phân chia cũ theo ranh giới chính trị và tôn giáo. Thanh niên, đặc biệt là sinh viên, bác bỏ các tập tục truyền thống và thúc đẩy thay đổi trong các vấn đề như nữ quyền, đồng tính luyến ái, giải trừ quân bị và các vấn đề môi trường. Năm 2002, euro trở thành tiền tệ lưu hành. Năm 2010, Antille thuộc Hà Lan giải thể, các đảo Bonaire, Sint Eustatius và Saba đạt được quan hệ mật thiết hơn với Hà Lan.

    ^ Roebroeks, Wil; Sier, Mark J.; Nielsen, Trine Kellberg; Loecker, Dimitri De; Parés, Josep Maria; Arps, Charles E. S.; Mücher, Herman J. (ngày 7 tháng 2 năm 2012). “Use of red ochre by early Neandertals”. Proceedings of the National Academy of Sciences (bằng tiếng Anh). tr. 1889–1894. doi:10.1073/pnas.1112261109. ^ Van Zeist, W. (1957), “De steentijd van Nederland”, Nieuwe Drentse Volksalmanak, 75: 4–11 ^ The New Encyclopædia Britannica, 15th edition, 22:641–642 ^ a b c d e f de Vries, Jan W., Roland Willemyns and Peter Burger, Het verhaal van een taal, Amsterdam: Prometheus, 2003, pp. 12, 21–27 ^ Hachmann, Rolf, Georg Kossack and Hans Kuhn, Völker zwischen Germanen und Kelten, 1986, pp. 183–212 ^ a b Lendering, Jona, "Germania Inferior" Lưu trữ 2020-06-07 tại Wayback Machine, Livius.org. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2011. ^ Roymans, Nico, Ethnic Identity and Imperial Power: The Batavians in the Early Roman Empire, Amsterdam: Amsterdam University Press, 2005, pp 226–227 ^ a b Previté-Orton, Charles, The Shorter Cambridge Medieval History, vol. I, pp. 51–52, 151 ^ Grane, Thomas (2007), “From Gallienus to Probus – Three decades of turmoil and recovery”, The Roman Empire and Southern Scandinavia–a Northern Connection! (PhD thesis), Copenhagen: University of Copenhagen, tr. 109 ^ Blom, J. C. H. (ngày 30 tháng 6 năm 2006). History of the Low Countries (bằng tiếng Anh). Berghahn Books. tr. 6–18. ISBN 9781845452728. ^ a b c Bazelmans, Jos (2009), “The early-medieval use of ethnic names from classical antiquity: The case of the Frisians”, trong Derks, Ton; Roymans, Nico (biên tập), Ethnic Constructs in Antiquity: The Role of Power and Tradition, Amsterdam: Amsterdam University, tr. 321–337, ISBN 978-90-8964-078-9, Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 8 năm 2017, truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017 ^ Frisii en Frisiaevones, 25–08–02 (Dutch) Lưu trữ 2011-10-03 tại Wayback Machine, Bertsgeschiedenissite.nl. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2011 ^ Willemsen, A. (2009), Dorestad. Een wereldstad in de middeleeuwen, Walburg Pers, Zutphen, pp. 23–27, ISBN 978-90-5730-627-3 ^ MacKay, Angus; David Ditchburn (1997). Atlas of Medieval Europe. Routledge. tr. 57. ISBN 0-415-01923-0. ^ Baldwin, Stephen, "Danish Haralds in 9th Century Frisia". Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2011. ^ Motley, John Lothrop (1855). The Rise of the Dutch Republic Vol. III, Harper Bros.: New York, p. 411. ^ Motley, John Lothrop (1855). The Rise of the Dutch Republic Vol. III, Harper Bros.: New York, p. 508. ^ Prak, Maarten (ngày 22 tháng 9 năm 2005). The Dutch Republic in the Seventeenth Century: The Golden Age (bằng tiếng Anh). Cambridge University Press. ISBN 9781316342480. p. 66 ^ "The Middle Colonies: New York"”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2012. Digital History. ^ Sayle, Murray (ngày 5 tháng 4 năm 2001). “Japan Goes Dutch”. London Review of Books. 23 (7): 3–7. ^ Koopmans, Joop W. Historical Dictionary of the Netherlands (bằng tiếng Anh). Rowman & Littlefield. tr. 233. ISBN 9781442255937. ^ Finkelman and Miller, Macmillan Encyclopedia of World Slavery 2:637 ^ “Dutch involvement in the transatlantic slave trade and abolition”. ascleiden.nl. ^ Abbenhuis, Maartje M. (2006) The Art of Staying Neutral. Amsterdam University Press, ISBN 90-5356-818-2. ^ “93 trains”. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2004.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết). kampwesterbork.nl ^ “Nederlanders in de Waffen-SS”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017. ^ MOOXE from Close Combat Series. “Indonesian SS Volunteers”. Closecombatseries.net. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2011. ^ “The Kingdom of the Netherlands declares war with Japan”. ibiblio. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2009. ^ Library of Congress, 1992, "Indonesia: World War II and the Struggle For Independence, 1942–50; The Japanese Occupation, 1942–45" Access date: ngày 9 tháng 2 năm 2007. ^ Video: Allies Set For Offensive. Universal Newsreel. 1944. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2012. ^ “Netherlands”. Encyclopædia Britannica Online. Encyclopædia Britannica, Inc. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2012.
    Read less

Phrasebook

Xin chào
Hallo
Thế giới
Wereld
Chào thế giới
Hallo Wereld
Cảm ơn bạn
Dank je
Tạm biệt
Tot ziens
Đúng
Ja
Không
Nee
Bạn khỏe không?
Hoe gaat het met je?
Tốt, cảm ơn bạn
Fijn, bedankt
cái này giá bao nhiêu?
Hoeveel is het?
Số không
Nul
Một
Een

Where can you sleep near Hà Lan ?

Booking.com
489.962 visits in total, 9.198 Points of interest, 404 Đích, 11 visits today.