Context of Philippines


Philippines (phát âm tiếng Anh: /ˈfɪlɪpiːnz/, phiên âm: "Phi-líp-pin", tiếng Tagalog/tiếng Filipino: "Pilipinas" hoặc "Filipinas", Hán-Việt: Phi Luật Tân), tên gọi chính thức là Cộng hòa Philippines (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: Republika ng Pilipinas; tiếng Anh: Republic of the Philippines; tiếng Tây Ban Nha: República de Filipinas) là một đảo quốc có chủ quyền tại khu vực Đông Nam Á. Philippines nằm cách đảo Đài Loan qua eo biển Luzon ở phía Bắc, cách Việt Nam qua biển Đông ở phía Tây, cách đảo Borneo của Indonesia qua biển Sulu ở phía Tây Nam và các đảo khác của nước này qua biển Celebes ở phía Nam, phía đông là biển Philippines và đảo quốc Palau. Philippines nằm trên Vành đai núi lửa Thái Bình Dương và gần với đường xích đạo, do vậy, quốc gia này hằng năm thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các trận động đất và bão nhiệt đới - đây là quốc gia phải hứ...Xem thêm


Philippines (phát âm tiếng Anh: /ˈfɪlɪpiːnz/, phiên âm: "Phi-líp-pin", tiếng Tagalog/tiếng Filipino: "Pilipinas" hoặc "Filipinas", Hán-Việt: Phi Luật Tân), tên gọi chính thức là Cộng hòa Philippines (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: Republika ng Pilipinas; tiếng Anh: Republic of the Philippines; tiếng Tây Ban Nha: República de Filipinas) là một đảo quốc có chủ quyền tại khu vực Đông Nam Á. Philippines nằm cách đảo Đài Loan qua eo biển Luzon ở phía Bắc, cách Việt Nam qua biển Đông ở phía Tây, cách đảo Borneo của Indonesia qua biển Sulu ở phía Tây Nam và các đảo khác của nước này qua biển Celebes ở phía Nam, phía đông là biển Philippines và đảo quốc Palau. Philippines nằm trên Vành đai núi lửa Thái Bình Dương và gần với đường xích đạo, do vậy, quốc gia này hằng năm thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các trận động đất và bão nhiệt đới - đây là quốc gia phải hứng chịu nhiều thiên tai vào bậc nhất trên toàn cầu, song lại có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng sinh học ở mức độ cao. Philippines có diện tích 300.000km² (115.831 dặm vuông Anh), là quốc gia rộng lớn thứ 71 trên thế giới, bao gồm 7.641 hòn đảo được phân loại phổ biến thành ba vùng địa lý lớn: Luzon, Visayas, và Mindanao. Thủ đô của Philippines là Manila, còn thành phố đông dân và lớn nhất là Quezon; cả hai thành phố đều thuộc Vùng đô thị Manila.

Với dân số ít nhất là 106,7 triệu, Philippines là quốc gia đông dân thứ bảy tại châu Á, thứ hai Đông Nam Á và đứng thứ 12 trên thế giới. Ngoài ra, còn có khoảng 12 triệu người Philippines sống tại hải ngoại, họ tạo thành một trong những cộng đồng lớn và có ảnh hưởng trên thế giới. Philippines có sự đa dạng về chủng tộc và văn hóa. Vào thời tiền sử, người Negrito nằm trong số các cư dân đầu tiên của quần đảo, tiếp theo là các làn sóng nhập cư của người Nam Đảo. Sau đó, nhiều quốc gia khác nhau được thành lập trên quần đảo, nằm dưới quyền cai trị của những quân chủ mang tước vị Datu, Rajah, Sultan hay Lakan. Thương mại với Trung Quốc cũng khiến cho văn hóa Trung Quốc được truyền bá đến Philippines, đồng thời xuất hiện nhiều hơn các khu vực buôn bán của người Hán; dần dần, cộng đồng này định cư lâu dài và chuyển thành người Philippines gốc Hoa.

Ferdinand Magellan đến Philippines vào năm 1521, sự kiện này đánh dấu kỷ nguyên người Tây Ban Nha quan tâm và cuối cùng là thuộc địa hóa quần đảo. Năm 1543, nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Ruy López de Villalobos đặt tên cho quần đảo là Las Islas Filipinas, tức Quần đảo Philippines, nhằm tôn vinh Quốc vương Felipe II của Đế quốc Tây Ban Nha. Miguel López de Legazpi đến quần đảo từ Tân Tây Ban Nha (tức México ngày nay) vào năm 1565, ông thành lập nên khu định cư đầu tiên của người Tây Ban Nha tại quần đảo, và quần đảo trở thành thuộc địa của Tây Ban Nha trong vòng hơn 300 năm sau đó. Thời kỳ thuộc địa khiến cho Công giáo Roma chiếm ưu thế tại Philippines. Hiện nay, Philippines và Đông Timor là hai quốc gia Đông Nam Á cũng như châu Á duy nhất mà tôn giáo này chiếm ưu thế. Thời kỳ thuộc địa cũng đã làm cho Philippines trở thành quốc gia duy nhất trong khu vực Đông Nam Á ngày nay còn lưu lại rất ít, có thể nói gần như không đối với sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và văn hóa Ấn Độ. Thời kỳ thuộc địa cũng là thời kỳ mà Manila trở thành đầu mối châu Á của tuyến đường thương mại thuyền buồm Manila-Acapulco.

Vào thời gian chuyển giao giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX, tại quần đảo này đã liên tiếp diễn ra các cuộc cách mạng Philippines, chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và chiến tranh Philippines-Mỹ, dẫn đến kết quả cuối cùng là Hoa Kỳ trở thành thế lực mới, thay thế Tây Ban Nha thống trị quần đảo, song quá trình này bị gián đoạn kể từ sau khi Đế quốc Nhật Bản chiếm đóng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hiệp ước Manila công nhận "Cộng hòa Philippines" là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Kể từ đó, Philippines trải qua các biến động chính trị lớn, là phong trào "quyền lực nhân dân" lật đổ chế độ độc tài của nhà độc tài Ferdinand Marcos.

Thể chế chính trị của Philippines ngày nay Cộng hòa Tổng thống chế. Kinh tế Philippines là một nền kinh tế thị trường, tổng GDP xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á sau Indonesia và Thái Lan và đứng hạng 32 toàn cầu theo GDP danh nghĩa năm 2020. Philippines được coi là một trong những con Hổ mới châu Á cùng với Indonesia, Malaysia, Việt Nam và Thái Lan. HSBC dự đoán kinh tế của Philippines có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ 16 trên thế giới, lớn thứ 5 châu Á và lớn thứ 2 Đông Nam Á vào năm 2050, đồng thời, quy mô dân số rất lớn (hơn 105 triệu người) cùng chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao giúp cho Philippines có triển vọng để được công nhận là một cường quốc khu vực cũng như cường quốc bậc trung. Tuy nhiên, triển vọng có thể trở thành hiện thực được hay không thì còn tùy thuộc vào hiệu quả hoạt động của chính phủ nước này, vốn luôn bị ảnh hưởng bởi nạn tham nhũng.

Bên cạnh những dự báo khả quan về kinh tế, xã hội Philippines hiện đại cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn, nhức nhối như: nạn tham nhũng, bất bình đẳng kinh tế - xã hội, tệ nạn ma túy cùng chủ nghĩa khủng bố - ly khai do các nhóm phiến quân Hồi giáo cực đoan ở miền Nam đất nước như Abu Sayyaf tiến hành.

More about Philippines

Basic information
  • Currency Peso Philippines
  • Calling code +63
  • Internet domain .ph
  • Mains voltage 220V/60Hz
  • Democracy index 6.56
Population, Area & Driving side
  • Population 109035343
  • Diện tích 343448
  • Driving side right
Lịch sử
  • Lịch sử Tiền sử

    Khối xương bàn chân của người ở di cốt Callao (Callao Man) được cho là có niên đại từ 67.000 năm trước theo phương pháp định tuổi bằng urani-thori.[1] do vậy thay thế di cốt Tabon (Tabon Man) được tìm thấy tại Palawan có niên đại khoảng 24.000 năm trước theo phương pháp cácbon C14,[2][3] là hóa thạch loài người cổ xưa nhất được phát hiện trên quần đảo. Người Negrito nằm trong số các cư dân đầu tiên của quần đảo, song không xác định được niên đại đáng tin cậy.[4] Có một vài thuyết đối lập liên quan đến nguồn gốc của người Philippines cổ đại. Thuyết được chấp thuận rộng rãi nhất dựa trên bằng chứng ngôn ngữ học và khảo cổ học, đó là mô hình "ra khỏi Đài Loan", với giả thuyết được đưa ra là người Nam Đảo từ Đài Loan bắt đầu nhập cư đến Philippines từ khoảng năm 4000 TCN, thay thế các cư dân đến từ trước đó.[5][6]

    ...Xem thêm
    Lịch sử Tiền sử

    Khối xương bàn chân của người ở di cốt Callao (Callao Man) được cho là có niên đại từ 67.000 năm trước theo phương pháp định tuổi bằng urani-thori.[1] do vậy thay thế di cốt Tabon (Tabon Man) được tìm thấy tại Palawan có niên đại khoảng 24.000 năm trước theo phương pháp cácbon C14,[2][3] là hóa thạch loài người cổ xưa nhất được phát hiện trên quần đảo. Người Negrito nằm trong số các cư dân đầu tiên của quần đảo, song không xác định được niên đại đáng tin cậy.[4] Có một vài thuyết đối lập liên quan đến nguồn gốc của người Philippines cổ đại. Thuyết được chấp thuận rộng rãi nhất dựa trên bằng chứng ngôn ngữ học và khảo cổ học, đó là mô hình "ra khỏi Đài Loan", với giả thuyết được đưa ra là người Nam Đảo từ Đài Loan bắt đầu nhập cư đến Philippines từ khoảng năm 4000 TCN, thay thế các cư dân đến từ trước đó.[5][6]

    Các quốc gia cổ  Một cặp đôi người Tagalog thuộc đẳng cấp Maginoo trên một trang của Códice Boxer vào thế kỷ XVI.

    Mặc dù một số xã hội trên các hòn đảo rải rác vẫn biệt lập, song nhiều xã hội khác phát triển thành các quốc gia và phát triển hoạt động mậu dịch đáng kể với các dân tộc khác ở Đông và Đông Nam Á. Thiên niên kỉ thứ nhất Công nguyên chứng kiến sự nổi lên của các tiểu quốc hải cảng và phát triển thành các quốc gia hàng hải, bao gồm các barangay tự trị, hoặc liên minh với nhau, các quốc gia lớn nằm dưới hải quyền của người Mã Lai do các Datu trị vì, các quốc gia triều cống cho Trung Quốc do Vương cai trị, các vương quốc Ấn hóa do các Rajah cai trị. Có thể kể đến Datu Puti cai trị Liên bang Madja-as sau khi ông mua lãnh địa từ tù trưởng người Negrito tên là Marikudo. Sau đó là Vương quốc Butuan, quốc gia này nổi lên trong triều đại của Rajah Sri Bata Shaja,[7] Vương quốc Tondo do triều đại Lakandula cai trị[8][9] và Vương quốc Cebu[10] dưới sự lãnh đạo của Rajamuda Sri Lumay. Các quốc gia khác trong thời đại này bao gồm vương quốc Hán hóa Ma Dật với người đứng đầu là một vương, và Sulu trước khi bị Hồi giáo hóa từng là một vương quốc Ấn Độ hóa, với người cai trị đầu tiên là Rajah Sipad Cựu.[11] Các sử thi lớn như Hinilawod, Darangan và Biag Ni Lam-Ang có nguồn gốc từ thời đại này.[12]

    Những năm 1300 báo trước sự xuất hiện và cuối cùng là truyền bá Hồi giáo tại quần đảo Philippines. Năm 1380, Karim ul' Makdum và Shari'ful Hashem Syed Abu Bakr đi từ Malacca đến Sulu là lập nên Vương quốc Hồi giáo Sulu bắt cách cải đạo rajah của Sulu và kết hôn với con gái của rajah.[13][14] Đến cuối thế kỷ XV, Shariff Mohammed Kabungsuwan của Johor đưa Hồi giáo đến đảo Mindanao. Sau đó, ông ta kết hôn với Paramisuli, một công chúa người Iranun, và lập nên Vương quốc Hồi giáo Maguindanao. Các vương quốc Hồi giáo mở rộng đến Lanao.[15] Cuối cùng, Hồi giáo vượt khỏi phạm vi của đảo Mindanao và lan đến phía nam đảo Luzon. Thậm chí Manila cũng bị Hồi giáo hóa trong thời gian trị vì của Sultan Bolkiah từ năm 1485 đến năm 1521, khi đó Vương quốc Hồi giáo Brunei chinh phục Vương quốc Tondo bằng cách cải đạo Rajah Salalila sang Hồi giáo.[16][17][18][19] Tuy nhiên, các quốc gia như Igorot theo thuyết vật linh, Madja-as Mã Lai, Ma Dật Hán hóa, Lequios và Butuan Ấn Độ hóa vẫn duy trì văn hóa của mình. Trong một số vương quốc xuất hiện việc chống Hồi giáo gay gắt. Sự kình địch giữa các datu, raja, vương, sultan, và lakan và giữa các quốc gia của họ khiến cho người Tây Ban Nha dễ dàng thuộc địa hóa quần đảo. Các quốc gia này được hợp nhất vào Đế quốc Tây Ban Nha, và bị Tây Ban Nha hóa và Thiên Chúa giáo hóa.[20]

    Thuộc địa của Tây Ban Nha  Pháo đài Santiago tại Manila do Miguel López de Legazpi xây dựng vào năm 1590.

    Năm 1521, nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha Ferdinand Magellan đến Philippines và tuyên bố chủ quyền của Tây Ban Nha đối với quần đảo, ông ta bị giết chết sau đó trong trận Mactan.[21] Quá trình thuộc địa hóa bắt đầu khi nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Miguel López de Legazpi đến từ Mexico vào năm 1565 và thành lập các khu định cư đầu tiên của người Âu tại Cebu. Người Tây Ban Nha thiết lập Manila làm thủ đô của Đông Ấn Tây Ban Nha vào năm 1571 sau khi đàn áp sự kháng cự của người bản địa và đánh bại hải tặc người Trung Quốc Lâm A Phượng (Limahong).[22][23]

    Sự thống trị của người Tây Ban Nha đóng góp đáng kể vào việc thống nhất chính trị tại quần đảo. Từ năm 1565 đến năm 1821, Philippines được quản lý với địa vị là một lãnh thổ của Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha và sau Chiến tranh độc lập Mexico thì được quản lý trực tiếp từ Madrid. Thuyền buồm Manila cùng hạm đội hải quân lớn của nó kết nối Manila với Acapulco, qua lại một hoặc hai lần mỗi năm từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Hoạt động mậu dịch đưa đến Philippines các loại lương thực có xuất xứ từ châu Mỹ như ngô, cà chua, khoai tây, ớt.[23] Các nhà truyền giáo của Công giáo Rôma cải đạo hết hết các cư dân vùng thấp sang đạo này và lập nên các trường học, một đại học, và các bệnh viện. Một sắc lệnh của Tây Ban Nha quyết định tiến hành giáo dục công miễn phí vào năm 1863, song các nỗ lực nhằm thực hiện giáo dục đại chúng chủ yếu được thực hiện dưới thời Mỹ thuộc.[24]

    Trong thời kỳ cai trị Philippines, người Tây Ban Nha phải chiến đấu chống lại các cuộc nổi dậy của người bản địa và một vài thách thức đến từ hải tặc Trung Quốc, người Hà Lan, và người Bồ Đào Nha. Trong khuôn khổ Chiến tranh Bảy năm, quân đội Anh chiếm Manila từ năm 1762 đến năm 1764. Quyền cai trị của người Tây Ban Nha được khôi phục sau Hiệp định Paris 1763.[20][25][26] Đến thế kỷ XIX, các cảng của Philippines mở cửa cho mậu dịch toàn cầu và xã hội thuộc địa bắt đầu xuất hiện các thay đổi. Nhiều người Tây Ban Nha sinh ra tại Philippines (criollos) và những người hỗn chủng (mestizos) trở nên thịnh vượng, nhiều người nắm giữ các chức vụ trong chính quyền vốn có truyền thống do những người Tây Ban Nha sinh tại bán đảo Iberia nắm giữ. Những tư tưởng cách mạng cũng bắt đầu được truyền bá trên khắp quần đảo. Việc người Criollo bất mãn dẫn đến Binh biến Cavite vào năm 1872, được xem là điềm báo trước cho Cách mạng Philippines.[20][27][28][29]

    Tình cảm cách mạng bùng lên vào năm 1872 sau khi ba linh mục là Mariano Gómez, José Burgos, và Jacinto Zamora (gọi chung là Gomburza) bị nhà cầm quyền thuộc địa buộc tội xúi giục nổi loạn và hành quyết.[27][28] Sự việc này truyền cảm hứng cho một phong trào tuyên truyền tại Tây Ban Nha do Marcelo H. del Pilar, José Rizal, và Mariano Ponce tổ chức, nhằm vận động hành lang cho các cải cách chính trị tại Philippines. Rizal cuối cùng bị hành quyết vào ngày 30 tháng 12 năm 1896 với tội danh nổi loạn.[30] Do các nỗ lực nhằm cải cách gặp phải cản trở, Andrés Bonifacio vào năm 1892 thành lập một đoàn thể bí mật gọi là Katipunan nhằm giành độc lập từ Tây Ban Nha thông qua hoạt động vũ trang.[29] Bonifacio cùng Katipunan bắt đầu cuộc Cách mạng Philippines vào năm 1896. Magdalo là một phái của Katipunan tại tỉnh Cavite, cuối cùng họ thách thức vị trí lãnh đạo của Bonifacio và người này bị Emilio Aguinaldo thay thế. Năm 1898, Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ bắt đầu từ Cuba và lan đến Philippines. Aguinaldo tuyên bố Philippines độc lập từ Tây Ban Nha tại Kawit, Cavite vào ngày 12 tháng 6 năm 1898, và Đệ nhất Cộng hòa Philippines được thành lập tại Nhà thờ Barasoain vào năm sau.

    Thời Mỹ thuộc  Tổng thống Manuel L. Quezon vào tháng 11 năm 1942

    Tây Ban Nha nhượng quần đảo cho Hoa Kỳ để đổi lấy 20 triệu đô la theo Hiệp định Paris 1898.[31] Đến khi tình hình ngày càng trở nên rõ ràng rằng Hoa Kỳ sẽ không công nhận Cộng hòa Philippines mới ra đời, Chiến tranh Philippines–Mỹ bùng nổ, kết quả Đệ nhất Cộng hòa chiến bại. Tuy nhiên, thay thế nó là ba nước cộng hòa: Cộng hòa Zamboanga, Cộng hòa Negros và Cộng hòa Tagalog. Các chính thể này cũng bị đánh bại, và quần đảo nằm dưới quyền quản lý của Chính phủ Đảo (Insular Government).[32] Nổi dậy Moro ngay lập tức diễn ra sau đó, chủ yếu là nhằm chống lại Vương quốc Hồi giáo Sulu đang suy yếu.[33] Trong thời kỳ này, văn hóa Philippines được phục hưng với sự phát triển của điện ảnh và văn học.[34][35][36][37] Daniel Burnham lập nên một kế hoạch kiến trúc cho Manila, biến nơi này thành một thành phố hiện đại.[38]

    Năm 1935, Philippines có được địa vị thịnh vượng chung với tổng thống là Manuel Quezon. Ông chỉ định một ngôn ngữ quốc gia và cho phép phụ nữ bầu cử, tiến hành cải cách đất đai.[30][39] Các kế hoạch để tiến đến độc lập trong thập niên sau đó bị gián đoạn trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong cuộc chiến này, Đế quốc Nhật Bản xâm chiếm quần đảo, Đệ nhị Cộng hòa Philippines được thành lập với José P. Laurel là tổng thống, đây là một chính thể cộng tác với Nhật Bản. Nhiều hành động tàn bạo và tội ác chiến tranh diễn ra trong cuộc chiến, chẳng hạn như Cuộc hành quân chết chóc Bataan và Thảm sát Manila.[40] Năm 1944, Quezon qua đời trong khi lưu vong tại Hoa Kỳ, Sergio Osmeña kế nhiệm. Lực lượng Đồng Minh đánh bại Nhật Bản vào năm 1945. Đến khi kết thúc chiến tranh, người ta ước tính có hơn một triệu người Philippines thiệt mạng.[41]

    Thời đại Chiến tranh Lạnh  Ferdinand và Imelda Marcos.

    Ngày 24 tháng 10 năm 1945,[42] Philippines trở thành một thành viên sáng lập của Liên Hợp Quốc và đến ngày 4 tháng 7 năm 1946, Hoa Kỳ công nhận Philippines độc lập, khi đó quốc gia nằm dưới quyền cai trị của Tổng thống Manuel Roxas.[43] Những thành phần tàn dư bất mãn gồm những thành viên Hukbalahap cộng sản[44] tiếp tục hoạt động ở vùng nông thôn song bị đàn áp dưới thời Tổng thống Ramon Magsaysay.[45][46] Người kế nhiệm của Magsaysay là Carlos P. Garcia đề xướng Chính sách người Philipines trước tiên,[47] và được Diosdado Macapagal tiếp nối, cùng với đó là việc chuyển ngày Độc lập từ 4 tháng 7 sang 12 tháng 6, tức ngày Emilio Aguinaldo tuyên bố độc lập,[48][49] trong khi tiếp tục thúc đẩy hơn nữa tuyên bố chủ quyền đối với Bắc Borneo.[50][51]

    Năm 1965, quyền lực vào tay tổng thống dân cử Ferdinand Marcos. Vào đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình, Marcos khởi xướng nhiều dự án công cộng song bị cáo buộc tham nhũng nghiêm trọng, chẳng hạn như biển thủ hàng tỷ đô la tiền công quỹ.[52] Xã hội Philippines rất hỗn loạn vào giữa nhiệm kỳ của ông, và đến gần cuối nhiệm kỳ, Marcos tuyên bố thiết quân luật vào ngày 21 tháng 9 năm 1972. Giai đoạn Marcos cầm quyền có đặc điểm là đàn áp chính trị, độc tài, và vi phạm nhân quyền.[53] Ngày 21 tháng 8 năm 1983, kình địch chính của Marcos là lãnh tụ đối lập Benigno Aquino, Jr. bị ám sát tại Sân bay quốc tế Manila. Marcos cuối cùng kêu gọi bầu cử tổng thống sớm, tranh cử cùng góa phụ của Benigno Aquino là Corazon Aquino.[54] Marcos được tuyên bố thắng cử, song kết quả bị cho là gian lận, dẫn đến Cách mạng Quyền lực Nhân dân. Marcos và các đồng minh của ông chạy sang Hawaii và Aquino được công nhận là tổng thống.[54][55]

    Lịch sử hiện đại

    Nền dân chủ quay trở lại và các cải cách của chính phủ bắt đầu vào năm 1986 bị cản trở do nợ quốc gia, tham nhũng trong chính phủ, các nỗ lực đảo chính, thiên tai, cuộc nổi dậy dai dẳng của cộng sản,[56] và một cuộc xung đột quân sự với các phần tử ly khai Moro.[57] Quân đội Hoa Kỳ rút khỏi vịnh Subic và căn cứ không quân Clark. Fidel V. Ramos đắc cử tổng thống vào năm 1992, nền kinh tế quốc gia được cải thiện dưới thời chính phủ của ông. Tuy nhiên, các tiến bộ về chính trị và kinh tế, chẳng hạn như một thỏa thuận hòa bình với Mặt trận giải phóng dân tộc Moro,[58] bị phủ định cùng với sự khởi đầu của Khủng hoảng tài chính châu Á 1997 vào năm 1997.[59][60]

    Năm 2001, bị buộc tội tham nhũng, trong khi một quá trình luận tội bị đình trệ, Tổng thống Joseph Estrada bị phế truất trong Cách mạng EDSA 2001, người thay thế là Gloria Macapagal-Arroyo.[61] Chín năm cầm quyền của bà gắn liền với các vụ bê bối tham nhũng và chính trị, mặc dù nền kinh tế vẫn tăng trưởng ổn định và tránh được Đại suy thoái.[62][63][64][65] Năm 2010, Benigno Aquino III đắc cử tổng thống. Trong nhiệm kỳ của ông, thỏa thuận hòa bình với phe Moro được ký kết, song các tranh chấp lãnh thổ tại Bắc Borneo và biển Đông thì leo thang.[66][67][68][69] Rodrigo Duterte của PDP–Laban thắng cử tổng thống năm 2016, trở thành tổng thống đầu tiên xuất thân từ Mindanao.[70]

    ^ Henderson, Barney (ngày 4 tháng 8 năm 2010). “Archaeologists unearth 67000-year-old human bone in Philippines”. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2010. ^ Fox, Robert B. (1970). The Tabon Caves: Archaeological Explorations and Excavations on Palawan. National Museum. tr. 44. ASIN B001O7GGNI. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2009. ^ Scott, William Henry. (1984). Prehispanic Source Materials for the Study of Philippine History. Quezon City: New Day Publishers. tr. 15. ISBN 971-10-0227-2. ^ Scott, William Henry. (1984). Prehispanic Source Materials for the Study of Philippine History. Quezon City: New Day Publishers. tr. 138. ISBN 971-10-0227-2. Not one roof beam, not one grain of rice, not one pygmy Negrito bone has been recovered. Any theory which describes such details is therefore pure hypothesis and should be honestly presented as such. ^ Solheim, Wilhelm G., II. (tháng 1 năm 2006). Origins of the Filipinos and Their Languages (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2009. ^ Mijares, Armand Salvador B. (2006). The Early Austronesian Migration To Luzon: Perspectives From The Peñablanca Cave Sites Lưu trữ 2013-08-23 tại Wayback Machine. Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 26: 72–78. ^ “Timeline of history”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009. ^ Ring, Trudy, Robert M. Salkin, and Sharon La Boda. (1996). International Dictionary of Historic Places: Asia and Oceania. Taylor & Francis. tr. 565–569. ISBN 1-ngày 84 tháng 4 năm 4964 Kiểm tra giá trị |isbn=: ký tự không hợp lệ (trợ giúp). Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) ^ Zaide, Gregorio F. (1957). Philippine Political and Cultural History. Philippine Education Co. tr. 42. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010. ^ Trương Tiếp. (1618) (bằng chữ Hán). Đông Tây Dương khảo quyển 5 Lưu trữ 2017-10-10 tại Wayback Machine (tiếng Trung: 東西洋考). ISBN 7532515931. MID 00024687. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009. ^ Ibrahim 1985, tr. 51Bản mẫu:Cnf ^ “Filipino epic comes to life”. ^ 100 Events That Shaped The Philippines (Adarna Book Services Inc. 1999 Published by National Centennial Commission) Page 72 "The Founding of the Sulu Sultanate" ^ Bascar, C.M. (n.d.). Sultanate of Sulu, "The Unconquered Kingdom" Lưu trữ 2008-12-01 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2009 from The Royal Hashemite Sultanate of Sulu & Sabah Official Website. ^ "The Maguindanao Sultanate" Lưu trữ 2003-01-26 tại Wayback Machine, Moro National Liberation Front web site. "The Political and Religious History of the Bangsamoro People, condensed from the book Muslims in the Philippines by Dr. C. A. Majul." Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2008. ^ Pusat Sejarah Brunei Lưu trữ 2015-04-15 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2009. ^ McAmis, Robert Day (2002). Malay Muslims: The History and Challenge of Resurgent Islam in Southeast Asia. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 18–24, 53–61. ISBN 0-8028-4945-8. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010. ^ Munoz, Paul Michel (2006). Early Kingdoms of the Indonesian Archipelago and the Malay Peninsula. Singapore: Editions Didier Millet. tr. 171. ISBN 981-4155-67-5. ^ U.S. Department of State. Bureau of East Asian and Pacific Affairs. (June 2009). Background Note: Brunei. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2009. ^ a b c Agoncillo, Teodoro A. (1990). History of the Filipino People (ấn bản 8). Garotech Publishing. tr. 22. ISBN 971-8711-06-6. ^ Zaide, Gregorio F. and Sonia M. Zaide (2004). Philippine History and Government (ấn bản 6). All-Nations Publishing Company. ^ Kurlansky, Mark. (1999). The Basque History of the World. New York: Walker & Company. p. 64. ISBN 0-8027-1349-1. ^ a b Joaquin, Nick. (1988). Culture and History: Occasional Notes on the Process of Philippine Becoming. Manila: Solar Publishing. ^ Dolan, Ronald E. (Ed.). (1991). "Education". Philippines: A Country Study. Washington: GPO for the Library of Congress. Truy cập 2009-12-20 from Country Studies US Website. ^ Halili, Maria Christine N. (2004). Philippine History. Rex Bookstore. tr. 119–120. ISBN 971-23-3934-3. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010. ^ De Borja, Marciano R. (2005). Basques in the Philippines. University of Nevada Press. tr. 81–83. ISBN 0-87417-590-9. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2010.[liên kết hỏng] ^ a b Nuguid, Nati. (1972). "The Cavite Mutiny". in Mary R. Tagle. 12 Events that Have Influenced Philippine History. [Manila]: National Media Production Center. Truy cập 2009-12-20 from StuartXchange Website. ^ a b Joaquin, Nick. A Question of Heroes. ^ a b Richardson, Jim. (tháng 1 năm 2006). “Andrés Bonifacio Letter to Julio Nakpil, ngày 24 tháng 4 năm 1897”. Documents of the Katipunan. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2009. Liên kết ngoài trong |work= (trợ giúp) ^ a b Ocampo, Ambeth. (1999). Rizal Without the Overcoat . Pasig City: Anvil Publishing, Inc. ISBN 971-27-0920-5. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “ReferenceA” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác ^ Price, Michael G. (2002). Foreword. In A. B. Feuer, America at War: the Philippines, 1898–1913 (pp. xiii–xvi). Westport, Connecticut: Greenwood. ISBN 0-275-96821-9. ^ Gates, John M. (tháng 11 năm 2002). “The Pacification of the Philippines”. The U.S. Army and Irregular Warfare. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2010. ^ Kho, Madge. “The Bates Treaty”. PhilippineUpdate.com. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2007. ^ {{|url=http://benjieordonez.blogspot.com/2005/01/visayan-film-industry-retrospective.html%7Cdate=ngày 5 tháng 1 năm 2005 |access-date = ngày 7 tháng 9 năm 2013 |format=Fee required}} ^ 2013 Philippines Yearly Box Office Results ^ Armes, Roy. "Third World Film Making and the West", p.152. University of California Press, 1987. Truy cập on 2011-01-09. ^ "The Role of José Nepomuceno in the Philippine Society: What language did his silent film speaks?". Stockholm University Publications. Truy cập on 2014-01-28. ^ Moore, Charles (1921). "Daniel H. Burnham: Planner of Cities". Houghton Mifflin and Co., Boston and New York. ^ Manapat, Carlos, et al. Economics, Taxation, and Agrarian Reform. Quezon City: C&E Pub., 2010.Print. ^ White, Matthew. "Death Tolls for the Man-made Megadeaths of the 20th Century". Truy cập 2007-08-01. ^ Rottman, Gordon L. (2002). World War 2 Pacific Island Guide – A Geo-Military Study. Westport, Connecticut: Greenwood Press. p. 318. ISBN 0-313-31395-4. ^ “Founding Member States”. United Nations. ^ “World Factbook — Philippines”. CIA. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2008. ^ Jeff Goodwin, No Other Way Out, Cambridge University Press, 2001, p.119, ISBN 0-521-62948-9, ISBN 978-0-521-62948-5 ^ Molina, Antonio. The Philippines: Through the centuries. Manila: University of Sto. Tomas Cooperative, 1961. Print. ^ Carlos P. Romulo and Marvin M. Gray, The Magsaysay Story (1956), is a full-length biography ^ “Our Vision and Mission”. prescarlosgarcia.org. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. ^ Diosdado Macapagal, Proclamation No. 28 Declaring June 12 as Philippine Independence Day, Philippine History Group of Los Angeles, truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2009 ^ Manuel S. Satorre, Jr., President Diosdado Macapagal set RP Independence Day on June 12, .positivenewsmedia.net, Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2018, truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2008 ^ http://www.sabrizain.org/malaya/library/connections.pdf ^ Donald E. Weatherbee & Ralf Emmers, Mari Pangestu, Leonard C. Sebastian (2005). International relations in Southeast Asia. Rowman & Littlefield. tr. 68–69. ISBN 0-7425-2842-1. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2009.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) ^ What happened to the Marcos fortune?. BBC News. ngày 24 tháng 1 năm 2013. ^ Tarling, Nicholas (2000). The Cambridge History of Southeast Asia: From World War II to the Present, Volume 4. Cambridge University Press. tr. 293. ISBN 0-521-66372-5. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010. ^ a b Chandler, David P. and David Joel Steinberg (1987). In Search of Southeast Asia: A Modern History (ấn bản 2). University of Hawaii Press. tr. 431–442. ISBN 0-8248-1110-0. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010. ^ Osborne, Milton E. (2004). Southeast Asia: An Introductory History (ấn bản 9). Allen & Unwin. tr. 235–241. ISBN 1-74114-448-5. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2010. ^ Gov't drafts new framework to guide peace talks with leftist rebels.Philippine Star. ^ Julie Alipala (ngày 2 tháng 10 năm 2010). “RP terror campaign cost lives of 11 US, 572 RP soldiers—military”. Philippine Daily Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2012. ^ Gargan, Edward A. (ngày 11 tháng 12 năm 1997). “Last Laugh for the Philippines; Onetime Joke Economy Avoids Much of Asia's Turmoil”. New York Times. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2008. ^ “Financial Crisis and Global Governance: A Network Analysis”. tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2012. by Andrew Sheng, Adj. Prof., Tsinghua University và University of Malaya ^ “Analyzing Systemic Risk with Financial Networks During a Financial Crash” (PDF). ngày 10 tháng 3 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2012. by Taylan Yenilmez, Tinbergen Institute and Burak Saltoglu, Bogazici University ^ Bowring, Philip. Filipino Democracy Needs Stronger Institutions. International Herald Tribune website. 2001, January 22. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2009. ^ “Bolante Faces Off with Senators Over Fertilizer Fund Scam”. ANC. ngày 13 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2008. ^ "Arroyo claims hollow victory" Lưu trữ 2019-01-05 tại Wayback Machine by Leslie Davis, Asia Times Online, ngày 27 tháng 9 năm 2005. ^ Dizon, David. “Corruption was Gloria's biggest mistake: survey”. ABS-CBN News and Current Affairs. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012. ^ Press, Associated (ngày 18 tháng 11 năm 2011). “Philippines charges Gloria Arroyo with corruption”. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012. Former president is formally accused of electoral fraud after government rushed to court as she tried to leave country ^ “Speech of President Benigno Aquino III during the signing of the Framework Agreement on the Bangsamoro”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2014. ^ “The Republic of the Philippines v. The People's Republic of China”. Pca-cpa.org. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013. ^ Del Cappar, Michaela (ngày 25 tháng 4 năm 2013). “ITLOS completes five-man tribunal that will hear PHL case vs. China”. GMA News One. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013. ^ Frialde, Mike (ngày 23 tháng 2 năm 2013). “Sultanate of Sulu wants Sabah returned to Phl”. The Philippine Star. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2013. ^ “Duterte, Robredo win 2016 polls”. ABS-CBN. ngày 27 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2016.
    Read less

Where can you sleep near Philippines ?

Booking.com
487.403 visits in total, 9.187 Points of interest, 404 Đích, 29 visits today.