Indonesia

Gunkarta Gunawan Kartapranata - CC BY-SA 3.0 muhd rushdi samsudin from johor + terengganu, malaysia - CC BY-SA 2.0 User: (WT-shared) Shoestring at wts wikivoyage - Public domain LukeTriton - CC BY-SA 4.0 Ryan Gustiawan Putra - CC BY-SA 4.0 William Cho - CC BY-SA 2.0 Bellabangsa23 - CC BY-SA 4.0 MajaK. - CC BY 3.0 Lutfi adn - CC BY-SA 4.0 No machine-readable author provided. Jayapura assumed (based on copyright claims). - CC BY-SA 2.5 SOLOMONS, Thomas W.; FRYHLE, Craig B. - Public domain Yves Picq http://veton.picq.fr - CC BY-SA 3.0 Bellabangsa23 - CC BY-SA 4.0 Bellabangsa23 - CC BY-SA 4.0 Dimas H (WMID) - CC BY-SA 4.0 PHGCOM - CC BY-SA 3.0 PL09Puryono - CC0 Bellabangsa23 - CC BY-SA 4.0 Gunawan Kartapranata - CC BY-SA 3.0 Suryanata budi - CC BY-SA 4.0 User: (WT-shared) Shoestring at wts wikivoyage - Public domain Alfindra Primaldhi - CC BY 2.0 monica renata from jakarta - CC BY 2.0 Yon illahi - CC BY-SA 4.0 Bellabangsa23 - CC BY-SA 4.0 RaiyaniM - CC BY-SA 4.0 Kerildoank - CC BY-SA 4.0 Thespacewanderer - CC BY-SA 4.0 Petter Lindgren - CC BY-SA 3.0 Kerildoank - CC BY-SA 4.0 Kerildoank - CC BY-SA 4.0 Muhyiddin - CC BY-SA 4.0 User: (WT-shared) Shoestring at wts wikivoyage - Public domain Thespacewanderer - CC BY-SA 4.0 Lerdsuwa - CC BY-SA 3.0 Lyonerov - CC BY-SA 4.0 William Cho - CC BY-SA 2.0 MichaelJLowe - CC BY-SA 2.5 TropicaLiving - CC BY-SA 3.0 monica renata from jakarta - CC BY 2.0 yeowatzup - CC BY 2.0 chensiyuan - CC BY-SA 4.0 monica renata from jakarta - CC BY 2.0 Lutfi adn - CC BY-SA 4.0 Bellabangsa23 - CC BY-SA 4.0 frank wouters from antwerpen, belgium - CC BY 2.0 Gunawan Kartapranata - CC BY-SA 3.0 Riza Nugraha ? from Utrecht, The Netherlands - CC BY 2.0 Cakhairia - CC BY-SA 3.0 Official Website of Pariaman Indonesia's Regency - Public domain Thespacewanderer - CC BY-SA 4.0 Thespacewanderer - CC BY-SA 4.0 Riza Nugraha ? from Utrecht, The Netherlands - CC BY 2.0 Gunawan Kartapranata - CC BY-SA 3.0 Rahmat Irfan Denas - CC BY-SA 4.0 Gunawan Kartapranata - CC BY-SA 3.0 No images

Context of Indonesia

Indonesia, tên gọi chính thức là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik Indonesia), thường được gọi ngắn là Indo, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo" vì lãnh thổ của nước này bao gồm 13.487 hòn đảo với dân số ước tính đạt hơn 279 triệu người (năm 2022), xếp thứ 4 thế giới và đứng thứ 3 châu Á.

Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên khác với Malaysia và Brunei, trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia Hồi giáo giống như các nước Tây Á, Trung Đông, Bắc Phi, Malaysia hay Brunei,...). Indonesia theo thể chế cộng hòa với một bộ máy lập pháp và Tổng thống do dân bầu. Indonesia có biên giới trên đất liền với Papua New Guinea ở đảo New Guinea, Đông Timor ở đảo Timor và Malaysia ở đảo Borneo, ngoài ra vùng biển giáp các nư...Xem thêm

Indonesia, tên gọi chính thức là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik Indonesia), thường được gọi ngắn là Indo, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo" vì lãnh thổ của nước này bao gồm 13.487 hòn đảo với dân số ước tính đạt hơn 279 triệu người (năm 2022), xếp thứ 4 thế giới và đứng thứ 3 châu Á.

Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo lớn nhất trên thế giới, tuy nhiên khác với Malaysia và Brunei, trong Hiến pháp Indonesia không đề cập tới tôn giáo này là quốc giáo (do vậy không thể coi Indonesia là một quốc gia Hồi giáo giống như các nước Tây Á, Trung Đông, Bắc Phi, Malaysia hay Brunei,...). Indonesia theo thể chế cộng hòa với một bộ máy lập pháp và Tổng thống do dân bầu. Indonesia có biên giới trên đất liền với Papua New Guinea ở đảo New Guinea, Đông Timor ở đảo Timor và Malaysia ở đảo Borneo, ngoài ra vùng biển giáp các nước Singapore,Việt Nam, Philippines, Úc, và lãnh thổ Quần đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ. Thủ đô hiện tại là Jakarta và đây cũng đồng thời là tỉnh lớn nhất, tuy nhiên do sự quá tải dân số đang gây sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, chính phủ Indonesia đang có chủ trương dời đô trong tương lai.

Quần đảo Indonesia từng là một vùng thương mại quan trọng nhất từ thế kỷ VII. Lịch sử Indonesia bắt đầu khi Vương quốc Srivijaya có các hoạt động giao thương với Trung Quốc và Ấn Độ. Những vị vua cai trị địa phương dần tiếp thu văn hóa, tôn giáo và các mô hình quản lý kiểu Ấn Độ từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên, tiếp sau đó, các vương quốc Ấn Độ giáo cũng như Phật giáo đã bắt đầu hình thành và phát triển. Indonesia bị ảnh hưởng bởi các cường quốc nước ngoài muốn nhòm ngó các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quần đảo. Các nhà buôn Hồi giáo đã đưa đạo Hồi tới đây, đồng thời, các cường quốc châu Âu cũng bắt đầu tranh giành ảnh hưởng để độc chiếm lĩnh vực thương mại trên các hòn đảo Hương liệu Maluku trong Thời đại Khám phá. Sau hơn ba thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Hà Lan, Indonesia đã giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau độc lập, Indonesia tiếp tục rơi vào nhiều biến động lớn như xung đột quyền lực giữa các phe phái chính trị, nạn tham nhũng cũng như một quá trình dân chủ hoá chưa triệt để.

Tuy gồm rất nhiều hòn đảo, Indonesia vẫn có các nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo riêng biệt. Người Java là nhóm sắc tộc đông đúc và có vị thế chính trị lớn nhất còn người Indonesia gốc Hoa là nhóm cộng đồng có sức ảnh hưởng lớn nhất tới nền kinh tế.

Indonesia là 1 trong 5 quốc gia tham sáng lập ASEAN, thành viên của nhiều tổ chức toàn cầu lớn trong đó nổi bật nhất là G-20. Năm 2020, nền kinh tế Indonesia có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á, xếp thứ 15 toàn cầu hoặc hạng 4 châu Á và thứ 7 toàn cầu theo GDP sức mua tương đương (ước tính 2020). Tuy nhiên, do dân số quá đông (hơn 274,1 triệu người) nên GDP bình quân đầu người của nước này vẫn ở mức trung bình thấp. Quốc gia này có chỉ số phát triển con người (HDI) ở mức cao và được công nhận là một cường quốc ở khu vực Đông Nam Á cũng như cường quốc bậc trung trên thế giới.

Khẩu hiệu quốc gia của Indonesia, "Bhinneka tunggal ika" - "Thống nhất trong đa dạng" (theo nghĩa đen "nhiều, nhưng là một"), đã thể hiện rõ sự đa dạng hình thành nên quốc gia này. Tuy nhiên, những căng thẳng tôn giáo và chủ nghĩa ly khai đã dẫn tới những xung đột bạo lực đe doạ sự ổn định kinh tế và chính trị. Dù có dân số lớn và nhiều vùng dân cư đông đúc, Indonesia vẫn còn nhiều khu vực hoang vu, đây là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học đứng hàng đầu trên thế giới. Quốc gia này cũng rất giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên, có diện tích lãnh thổ rộng lớn nhất, dân số đông nhất và là quốc gia duy nhất thuộc G-20 trong số các nước Đông Nam Á, tuy vậy, tình trạng lạc hậu của các vùng nông thôn, tỷ lệ người nghèo cao cùng sự chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng thu nhập gia tăng đang là những vấn đề, thách thức lớn của xã hội Indonesia hiện đại.

More about Indonesia

Basic information
  • Currency Rupiah
  • Tên bản địa Indonesia
  • Calling code +62
  • Internet domain .id
  • Mains voltage 230V/50Hz
  • Democracy index 6.3
Population, Area & Driving side
  • Population 270203917
  • Diện tích 1904570
  • Driving side left
Lịch sử
  • Lịch sử  Hình khắc một con tàu tại Borobudur, khoảng năm 800. Ngay từ thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên các con tàu của Indonesia đã thực hiện các chuyến buôn tới tận Châu Phi. Một xưởng sản xuất chè tại Jakarta khoảng thập niên 1860, thời kỳ Indonesia thuộc Hà Lan

    Các di tích hoá thạch của người Homo erectus, thường được gọi là "Người Java", cho thấy quần đảo Indonesia đã có người ở từ hai triệu năm tới 500.000 năm trước.[1]Người Nam Đảo, là cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ Đài Loan. Họ tới Indonesia từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesia bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi họ mở rộng lãnh thổ.[2] Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên,[3] cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên.[4] Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia.[5]

    ...Xem thêm
    Lịch sử  Hình khắc một con tàu tại Borobudur, khoảng năm 800. Ngay từ thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên các con tàu của Indonesia đã thực hiện các chuyến buôn tới tận Châu Phi. Một xưởng sản xuất chè tại Jakarta khoảng thập niên 1860, thời kỳ Indonesia thuộc Hà Lan

    Các di tích hoá thạch của người Homo erectus, thường được gọi là "Người Java", cho thấy quần đảo Indonesia đã có người ở từ hai triệu năm tới 500.000 năm trước.[1]Người Nam Đảo, là cộng đồng dân cư đa số hiện tại, đã di cư tới Đông Nam Á từ Đài Loan. Họ tới Indonesia từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên, và đẩy người Melanesia bản xứ về các vùng xa xôi phía đông khi họ mở rộng lãnh thổ.[2] Các điều kiện nông nghiệp lý tưởng, và nền văn minh lúa nước xuất hiện sớm từ thế kỷ thứ VIII trước Công Nguyên,[3] cho phép các làng mạc, thị trấn và các vương quốc nhỏ dần phát triển từ thế kỷ thứ nhất. Vị trí đường biển chiến lược của Indonesia giúp thương mại nội địa và với nước ngoài phát triển. Ví dụ, các con đường thương mại nối với cả các vương quốc Ấn Độ và Trung Quốc đã được thiết lập từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên.[4] Chính thương mại đã hình thành nên lịch sử Indonesia.[5]

    Từ thế kỷ thứ bảy, vương quốc hàng hải Srivijaya hùng mạnh phát triển nhờ thương mại và các ảnh hưởng của Hindu giáo cùng Phật giáo được du nhập vào cùng thương mại.[6] Từ thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ thứ X, các triều đại nông nghiệp Phật giáo Sailendra và Hindu giáo Medang phát triển và suy tàn trong vùng nội địa Java, để lại các công trình tôn giáo lớn như Borobudur của Sailendra và Prambanan của Medang. Vương quốc Hindu Majapahit được thành lập ở phía đông Java hồi cuối thế kỷ XIII, và ở thời Gajah Mada, ảnh hưởng của nó đã lan rộng tới hầu hết Indonesia; giai đoạn này thường được coi là một "Thời kỳ Huy hoàng" trong lịch sử Indonesia.[7]

    Dù các thương gia Hồi giáo đã lần đầu đi qua Đông Nam Á từ đầu thời kỳ Hồi giáo, bằng chứng sớm nhất về cộng đồng dân cư Hồi giáo tại Indonesia có niên đại từ thế kỷ XIII ở phía bắc Sumatra.[8] Các vùng khác của Indonesia dần chấp nhận Hồi giáo, và nó đã là tôn giáo ưu thế tại Java và Sumatra từ cuối thế kỷ XVI. Ở hầu hết các nơi, Hồi giáo vượt lên và pha trộn với các ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo bản địa, hình thành nên hình thức Hồi giáo hiện tại ở Indonesia, đặc biệt tại Java.[9] Những người châu Âu đầu tiên tới Indonesia năm 1512, khi các thương gia Bồ Đào Nha, do Francisco Serrão dẫn đầu tìm cách thâu tóm các nguồn tài nguyên nhục đậu khấu, đinh hương, và hạt tiêu tại Maluku.[10] Các thương gia Hà Lan và Anh nhanh chóng theo chân. Năm 1602, Hà Lan thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) và trở thành một quyền lực lớn của châu Âu. Sau khi bị phá sản, Công ty Đông Ấn Hà Lan chính thức bị giải tán năm 1800, và chính phủ Hà Lan thành lập Đông Ấn Hà Lan như một thuộc địa được quốc hữu hóa.[11]

     Sukarno, vị Tổng thống sáng lập Indonesia

    Trong hầu hết thời gian của thời kỳ thuộc địa, Hà Lan chỉ kiểm soát vùng đất này một cách lỏng lẻo; chỉ tới đầu thế kỷ XX Hà Lan mới thực sự kiểm soát toàn bộ vùng đất lãnh thổ Indonesia hiện tại.[12] Cuộc xâm lược và chiếm đóng của Nhật Bản sau đó trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã chấm dứt thời kỳ cai trị của Hà Lan,[13] và khuyến khích phong trào độc lập từng bị đàn áp trước đó ở Indonesia. Hai ngày sau khi Nhật Bản đầu hàng, ngày 17 tháng 8 năm 1945, Sukarno, một lãnh đạo ảnh hưởng theo chủ nghĩa quốc gia, tuyên bố độc lập và được chỉ định làm tổng thống.[14] Người Hà Lan đã tìm cách tái lập quyền cai trị, và cuộc tranh giành ngoại giao và vũ trang đã chấm dứt vào tháng 12 năm 1949, khi đối mặt với sức ép quốc tế, Hà Lan chính thức công nhận nền độc lập của Indonesia[15] (ngoại trừ lãnh thổ Hà Lan Tây New Guinea, đã được tích hợp theo Thoả thuận New York năm 1962, và Đạo luật Tự do Lựa chọn được Liên hiệp quốc uỷ thác).

    Sukarno chuyển từ dân chủ sang chủ nghĩa độc đoán, và duy trì cơ sở quyền lực bằng cách cân bằng các lực lượng đối lập trong quân đội, và Đảng Cộng sản Indonesia (PKI).[16] Quân đội âm mưu đảo chính ngày 30 tháng 9 năm 1965, dẫn tới Các vụ giết người tại Indonesia 1965-1966, một phong trào thanh trừng chống cộng trong đó Đảng Cộng sản Indonesia bị cáo buộc âm mưu đảo chính, các đảng viên Cộng sản bị săn lùng và tiêu diệt.[17] Khoảng 500 nghìn tới 1 triệu người bị cho là có liên hệ với Đảng Cộng sản Indonesia đã bị giết hại.[18] Lãnh đạo quân đội, Tướng Suharto, công khai làm suy yếu vị trí chính trị của Sukarno, và được chính thức chỉ định làm tổng thống vào tháng 3 năm 1968. Chính sách Trật tự Mới của ông[19] được chính phủ Mỹ ủng hộ,[20] và khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Indonesia, đây là một yếu tố chính dẫn tới ba thập kỷ tăng trưởng kinh tế ổn định sau đó.[21] Tuy nhiên, sự độc đoán của chính sách "Trật tự Mới" bị chỉ trích rộng rãi vì tình trạng tham nhũng và đàn áp chính trị đối lập.

    Năm 1997 và 1998, Indonesia là nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc Khủng hoảng Tài chính châu Á.[22] Điều này càng khiến sự bất mãn của dân chúng với Trật tự Mới gia tăng[23] và dẫn tới các cuộc tuần hành dân chúng. Suharto từ chức ngày 21 tháng 5 năm 1998.[24]

    Xung đột sắc tộc ở Indonesia đã mang lại những vụ việc đẫm máu. Vào năm 1965, hàng chục nghìn người Hoa bị giết hại trong phong trào chống Cộng ở Indonesia. Sau sự kiện này, các trường dạy tiếng Trung Quốc bị đóng cửa, chữ viết Trung Quốc bị cấm. Chính quyền cũng cấm người Hoa tổ chức những ngày lễ, tết truyền thống, hạn chế nói tiếng Trung Quốc ở nơi công cộng. Các quan chức cho rằng ngôn ngữ Trung Quốc đối với người Indonesia cũng "nguy hiểm như vũ khí". Mãi đến thời cựu tổng thống Abdurrahman Wahid, tình hình mới dễ thở hơn cho người Hoa ở Indonesia - họ được phép sử dụng chữ viết của mình và kỷ niệm những ngày lễ, tết truyền thống. Trong cuộc biến động năm 1998, tâm lý thù ghét người Hoa khiến họ bị biến thành mục tiêu của bạo lực. Tháng 5/1998, những phần tử cực đoan đã cướp bóc, đốt tài sản của Hoa kiều, tấn công nhiều người. Gần 170 phụ nữ gốc Trung Quốc bị cưỡng hiếp, hậu quả là 20 người chết[25]

    Năm 1999, Đông Timor bỏ phiếu ly khai khỏi Indonesia, sau một cuộc xâm chiếm quân sự dài 25 năm được đánh dấu bởi những lời lên án quốc tế và những vụ đàn áp thường xuyên với người Đông Timor.[26] Từ khi Suharto từ chức, một quá trình tăng cường dân chủ gồm cả một chương trình trao quyền tự trị cho các vùng, và cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp năm 2004. Tình trạng bất ổn chính trị và kinh tế, bất ổn xã hội, tham nhũng và chủ nghĩa khủng bố đã giảm sút đáng kể. Dù các quan hệ giữa các tôn giáo và các nhóm sắc tộc phần lớn hài hòa, những vấn đề bất đồng và bạo lực tại một số khu vực vẫn thỉnh thoảng xảy ra.[27] Một cuộc dàn xếp chính trị cho cuộc xung đột vũ trang ly khai ở Aceh đã được thực hiện năm 2005.[28]

    ^ “Recent advances in far eastern paleoanthropology”. Annual Review of Anthropology. 17: 43–77. 1988. doi:10.1146/annurev.an.17.100188.000355. cited in T Pope & Soeriaatmadja, R. E., Suraya A. A. (1996). The Ecology of Java and Bali. Hong Kong: Periplus Editions Ltd. tr. 309–312.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết); “Evidence on the Age of the Asian Hominidae”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 80 (16): 4, 988–4992. ngày 15 tháng 8 năm 1983. doi:10.1073/pnas.80.16.4988. PMID 6410399. cited in T Pope & Soeriaatmadja, R. E., Suraya A. A. (1996). The Ecology of Java and Bali. Hong Kong: Periplus Editions Ltd. tr. 309.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết); de Vos, J.P. (ngày 9 tháng 12 năm 1994). “Dating hominid sites in Indonesia” (PDF). Science Magazine. 266 (16): 4, 988–4992. doi:10.1126/science.7992059. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp) cited in T Pope & Soeriaatmadja, R. E., Suraya A. A. (1996). The Ecology of Java and Bali. Hong Kong: Periplus Editions Ltd. tr. 309.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) ^ Taylor (2003), tr.5–7 ^ Taylor, Jean Gelman. Indonesia. New Haven and Luân Đôn: Yale University Press. tr. tr.8–9. ISBN 0-300-10518-5. ^ Taylor, Jean Gelman. Indonesia. New Haven and Luân Đôn: Nhà in Đại học Yale. tr. tr.15–18. ISBN 0-300-10518-5. ^ Taylor (2003), tr.3, 9, 10–11, 13, 14–15, 18–20, 22–23; Vickers (2005), tr.18–20, 60, 133–134 ^ Taylor (2003), pages 22–26; Ricklefs (1991), page 3 ^ Peter Lewis (1982). “The next great empire”. Futures. 14 (1): 47–61. doi:10.1016/0016-3287(82)90071-4. ^ Ricklefs (1991), tr.3-14 ^ Ricklefs (1991), tr.12–14 ^ Ricklefs, M.C (1993). A History of Modern Indonesia Since c.1300, ấn bản lần thứ 2. Luân Đôn: MacMillan. tr. tr.22–24. ISBN 0-333-57689-6. ^ Ricklefs (1991), tr.24 ^ Quân đội Hà Lan thường tham gia vào các cuộc chiến chống nổi loạn cả ở trên và bên ngoài Java. Ảnh hưởng của các lãnh đạo địa phương như Hoàng tử Diponegoro ở Trung Java, Imam Bonjol ở Trung Sumatra và Pattimura ở Maluku, và một cuộc chiến đẫm máu kéo dài 30 năm tại Aceh là làm suy yếu nền thống trị Hà Lan và khiến các lực lượng quân sự thuộc địa liên kết với nhau.(Schwartz 1999, tr.3–4) Dù có những sự phân chia chính trị, xã hội và phe phái quốc tế lớn thời Cách mạng Quốc gia, người Indonesia, về tổng thể, vẫn thống nhất với nhau trong cuộc chiến giành độc lập. ^ Gert Oostindie and Bert Paasman (1998). “Dutch Attitudes towards Colonial Empires, Indigenous Cultures, and Slaves”. Eighteenth-Century Studies. 31 (3): 349–355. doi:10.1353/ecs.1998.0021.; Ricklefs, M.C. (1993). History of Modern Indonesia Since c.1300, ấn bản lần thứ 2. Luân Đôn: MacMillan. ISBN 0-333-57689-6. ^ H. J. Van Mook (1949). “Indonesia”. Royal Institute of International Affairs. 25 (3): 274–285.; Charles Bidien (ngày 5 tháng 12 năm 1945). “Independence the Issue”. Far Eastern Survey. 14 (24): 345–348. doi:10.1525/as.1945.14.24.01p17062.; Taylor, Jean Gelman (2003). Indonesia: Peoples and History. Nhà in Đại học Yale. tr. 325. ISBN 0-300-10518-5.; Reid (1973), tr.30 ^ Charles Bidien (Ngày 5 tháng 12 năm 1945). “Independence the Issue”. Far Eastern Survey. 14 (24): 345–348. doi:10.1525/as.1945.14.24.01p17062.; “Indonesian War of Independence"”. Military. GlobalSecurity.org. Truy cập Ngày 11 tháng 12 năm 2006. ^ Ricklefs (1991), tr.237 - 280 ^ Friend (2003), pages 107–109; Chris Hilton (writer and director) (2001). Shadowplay (Television documentary). Vagabond Films and Hilton Cordell Productions.; Ricklefs (1991), tr.280–283, 284, 287–290 ^ John Roosa and Joseph Nevins (ngày 5 tháng 11 năm 2005). “40 Years Later: The Mass Killings in Indonesia”. CounterPunch. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2006.; Robert Cribb (2002). “Unresolved Problems in the Indonesian Killings of 1965-1966”. Asian Survey. 42 (4): 550–563. doi:10.1525/as.2002.42.4.550. ^ John D. Legge (1968). “General Suharto's New Order”. Royal Institute of International Affairs. 44 (1): 40–47. ^ US National Archives, RG 59 Records of Department of State; cable no. 868, ref: Embtel 852, ngày 5 tháng 10 năm 1965. [1]; Adrian Vickers, A History of Modern Indonesia. Cambridge University Press, tr. 163; 2005; David Slater, Geopolitics and the Post-Colonial: Rethinking North-South Relations, Luân Đôn: Blackwell, tr. 70 ^ Vickers, Adrian (2005). A History of Modern Indonesia. Nhà in Đại học Cambridge. ISBN 0-521-54262-6.; Schwarz, A. (1994). A Nation in Waiting: Indonesia in the 1990s. Westview Press. ISBN 1-86373-635-2.; Ricklefs, M. C. (1991). A History of Modern Indonesia since c.1300, Ấn bản lần thứ 2. MacMillan. ISBN 0-333-57689-X Kiểm tra giá trị |isbn=: giá trị tổng kiểm (trợ giúp). ^ Delhaise, Philippe F. (1998). Asia in Crisis: The Implosion of the Banking and Finance Systems. Willey. tr. tr.123. ISBN 0-471-83450-5. ^ Jonathan Pincus and Rizal Ramli (1998). “Indonesia: from showcase to basket case”. Cambridge Journal of Economics. 22 (6): 723–734. doi:10.1093/cje/22.6.723. ^ “President Suharto resigns”. BBC. ngày 21 tháng 5 năm 1998. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate= và |access-date= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) ^ https://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/tinh-canh-nguoi-hoa-o-dong-nam-a-1985129.html ^ Burr, W. (Ngày 6 tháng 12 năm 2001). “Ford and Kissinger Gave Green Light to Indonesia's Invasion of East Timor, 1975: New Documents Detail Conversations with Suharto”. National Security Archive Electronic Briefing Book No. 62. National Security Archive, The George Washington University, Washington, DC. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2006. Đã định rõ hơn một tham số trong author-name-list parameters (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết); “International Religious Freedom Report”. Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor. U.S. Department of State. ngáy 17 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày= (trợ giúp) ^ Robert W. Hefner (2000). “Religious Ironies in East Timor”. Religion in the News. 3 (1). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2006. ^ “Aceh rebels sign peace agreement”. BBC. Ngày 15 tháng 8 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate= và |access-date= (trợ giúp)Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
    Read less

Phrasebook

Xin chào
Halo
Thế giới
Dunia
Chào thế giới
Halo Dunia
Cảm ơn bạn
Terima kasih
Tạm biệt
Selamat tinggal
Đúng
Ya
Không
Tidak
Bạn khỏe không?
Apa kabar?
Tốt, cảm ơn bạn
Baik terimakasih
cái này giá bao nhiêu?
Berapa harganya?
Số không
Nol
Một
Satu

Where can you sleep near Indonesia ?

Booking.com
490.020 visits in total, 9.198 Points of interest, 404 Đích, 69 visits today.