Context of Luân Đôn

Luân Đôn (tiếng Anh: London; phát âm tiếng Anh: /ˈlʌndən/) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra 2000 năm trước đây với tên gọi đầu tiên là Londinium (Luân Đôn thuộc La Mã). Trung tâm chính từ xa xưa của Luân Đôn là Thành phố Luân Đôn, hiện vẫn giữ được ranh giới rộng hàng dặm vuông từ thời Trung Cổ trên quy mô lớn. Sớm nhất cũng từ thế kỷ 19, tên gọi "London" mới được biết đến như một đô thị lớn phát triển quanh trung tâm chính. Sự sáp nhập của những vùng đô thị liên hoàn tạo thành vùng Luân Đôn và vùng hành chính Đại Luân Đôn, do thị trưởng Luân Đôn và Hội đồng Luân Đôn điều hành thông qua đắc cử.

Luân Đôn là một thành phố toàn cầu, cùng với Thành phố New York là hai trung tâm kinh tế-tài chính lớn nhất thế giới. và có GDP thà...Xem thêm

Luân Đôn (tiếng Anh: London; phát âm tiếng Anh: /ˈlʌndən/) là thủ đô kiêm thành phố lớn nhất của Anh (England) và của cả Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (UK). Luân Đôn được người La Mã lập ra 2000 năm trước đây với tên gọi đầu tiên là Londinium (Luân Đôn thuộc La Mã). Trung tâm chính từ xa xưa của Luân Đôn là Thành phố Luân Đôn, hiện vẫn giữ được ranh giới rộng hàng dặm vuông từ thời Trung Cổ trên quy mô lớn. Sớm nhất cũng từ thế kỷ 19, tên gọi "London" mới được biết đến như một đô thị lớn phát triển quanh trung tâm chính. Sự sáp nhập của những vùng đô thị liên hoàn tạo thành vùng Luân Đôn và vùng hành chính Đại Luân Đôn, do thị trưởng Luân Đôn và Hội đồng Luân Đôn điều hành thông qua đắc cử.

Luân Đôn là một thành phố toàn cầu, cùng với Thành phố New York là hai trung tâm kinh tế-tài chính lớn nhất thế giới. và có GDP thành phố lớn nhất châu Âu. Trụ sở của hầu hết 100 công ty hàng đầu Vương quốc Anh và hơn 100/500 công ty lớn nhất châu Âu nằm tại trung tâm Luân Đôn. Sự ảnh hưởng của Luân Đôn đối với chính trị, tài chính, giáo dục, giải trí, truyền thông, thời trang, nghệ thuật và văn hóa đã mang lại vị thế thành phố toàn cầu và Caput Mundi cho Luân Đôn. Đây là một điểm đến du lịch lớn đối với du khách nội địa và quốc tế. Luân Đôn đã đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1908 và Thế vận hội Mùa hè 1948 và Thế vận hội Mùa hè 2012. Luân Đôn có 4 di sản thế giới: Tháp Luân Đôn; Vườn thực vật Hoàng gia, Kew; khu vực bao gồm Cung điện Westminster, Westminster Abbey và Giáo đường St. Margaret; khu định cư lịch sử Greenwich (trong đó có Đài thiên văn Hoàng gia đánh dấu kinh tuyến 0° (Greenwich Meridian) và giờ trung bình Greenwich (GMT).. Các địa danh nổi tiếng khác bao gồm Cung điện Buckingham, London Eye, Giao lộ Piccadilly, Nhà thờ St Paul, Cầu Tháp Luân Đôn, Quảng trường Trafalgar, The Shard và Bảo tàng Anh. London Underground là mạng lưới tàu điện ngầm lâu đời nhất trên thế giới.

Luân Đôn có thành phần dân tộc, văn hóa, tôn giáo đa dạng, có hơn 300 ngôn ngữ được sử dụng. Tại thời điểm tháng 7 năm 2016, thành phố có dân số chính thức là 8,787,892 người trong Đại Luân Đôn , khiến nó là đô thị đông dân nhất Liên minh châu Âu. Vùng đô thị Đại Luân Đôn (Greater London Urban Area) (vùng đô thị lớn thứ hai ở châu Âu) có dân số 9,787,426 . Còn vùng đô thị Luân Đôn lớn nhất châu Âu với dân số 14,040,163 người vào năm 2016 . Thống kê cho thấy chưa đến 70% dân số Luân Đôn là người da trắng, điều này cho thấy Luân Đôn có tính quốc tế cao. Hệ thống tàu điện ngầm Luân Đôn do Cục Vận tải Luân Đôn (Transport for London) quản lý, là hệ thống tàu điện ngầm cổ nhất thế giới. Sân bay Heathrow London là sân bay bận rộn nhất thế giới theo lượt khách quốc tế với không gian hàng không tấp nập hơn bất cứ trung tâm đô thị nào trên thế giới.

More about Luân Đôn

Population, Area & Driving side
  • Population 8799728
  • Diện tích 1572
Lịch sử
  • Lịch sử Thời tiền sử

    Năm 1993, phần còn lại của cây cầu thời đại đồ đồng đã được tìm thấy ở bờ biển phía nam, thượng nguồn của cầu Vauxhall. Cây cầu này hoặc băng qua sông Thames hoặc đến một hòn đảo đã mất trong đó. Hai trong số các loại gỗ này được định niên đại bằng cacbon phóng xạ, có từ năm 1750 trước Công nguyên và 1285 trước Công nguyên.

    Vào năm 2010, nền móng của một cấu trúc gỗ lớn, có niên đại từ năm 4800 trước Công nguyên đến 4500 trước Công nguyên, đã được tìm thấy trên bờ biển phía nam của sông Thames, ở hạ lưu cầu Vauxhall. Chức năng của cấu trúc mesolithic không được biết đến. Cả hai cấu trúc đều nằm ở bờ phía nam nơi sông Effra chảy vào sông Thames.

    ...Xem thêm
    Lịch sử Thời tiền sử

    Năm 1993, phần còn lại của cây cầu thời đại đồ đồng đã được tìm thấy ở bờ biển phía nam, thượng nguồn của cầu Vauxhall. Cây cầu này hoặc băng qua sông Thames hoặc đến một hòn đảo đã mất trong đó. Hai trong số các loại gỗ này được định niên đại bằng cacbon phóng xạ, có từ năm 1750 trước Công nguyên và 1285 trước Công nguyên.

    Vào năm 2010, nền móng của một cấu trúc gỗ lớn, có niên đại từ năm 4800 trước Công nguyên đến 4500 trước Công nguyên, đã được tìm thấy trên bờ biển phía nam của sông Thames, ở hạ lưu cầu Vauxhall. Chức năng của cấu trúc mesolithic không được biết đến. Cả hai cấu trúc đều nằm ở bờ phía nam nơi sông Effra chảy vào sông Thames.

    Buổi đầu của Luân Đôn  Vào năm 1300, Thành phố vẫn bị giới hạn trong Bức tường La Mã

    Mặc dù có một số bằng chứng về các khu dân cư rải rác trước thời La Mã trong khu vực này, khu dân cư lớn đầu tiên được thành lập bởi Đế chế La Mã vào năm 43, theo sau sự xâm lược đảo Anh của quân đội La Mã. Khu dân cư này được gọi là Londinium, được tin là nguồn gốc của tên gọi ngày hôm nay, mặc dù nguồn gốc Celt cũng là một khả năng.

    Luân Đôn đầu tiên chỉ tồn tại trong vòng 17 năm. Khoảng năm 61, bộ tộc Iceni của người Celt lãnh đạo bởi Nữ hoàng Boudica đánh ập vào Luân Đôn, đốt sạch thành phố. Kế tiếp, sự tái sinh với nhiều quy hoạch lớn của thành phố phát triển mạnh và gộp luôn cả Colchester như là thủ đô của Britannia như là một tỉnh La Mã vào năm 100. Vào thời kỳ đỉnh cao vào thế kỷ thứ 2, Luân Đôn thời La Mã có dân số khoảng 60.000 người. Tuy nhiên, vào thế kỉ thứ 3, thành phố bắt đầu suy yếu dần do các vấn đề nội bộ của Đế chế La Mã. vào thế kỉ thứ 5, nó bị bỏ hoang khi đế quốc La Mã diệt vong, mặc dù nền văn minh La Mã vẫn tiếp tục ở khu vực St Martin-in-the-Field cho đến khoảng năm 450.

     Aethelred II ra lệnh cho quân kéo sập Cầu London.

    Cho đến năm 500, người Anglo-Saxon đã tạo lập nên một khu dân cư mới (gọi là Lundenwic) vào khoảng 1 km về phía thượng nguồn của thành phố La Mã cũ, quanh khu vực ngày nay là Vườn Covent. Có lẽ là có một cảng biển tại cửa sông Fleet cho việc đánh cá và thương mại, và khu thương mại này nhanh chóng phát triển. Đến khoảng năm 680, thành phố đã tái sinh thành một cảng lớn, mặc dù có rất ít bằng chứng về sản xuất quy mô lớn cho đến khi thảm họa xảy đến vào năm 851, khi sự phòng thủ xiêu vẹo của thành phố mới bị vượt qua bởi sự càn quét của người Viking và nó bị san bằng.

    Người Viking đã thành lập Danelaw trên phần lớn miền đông và miền bắc nước Anh; ranh giới của nó kéo dài khoảng từ London đến Chester. Đó là một khu vực kiểm soát chính trị và địa lý được áp đặt bởi các cuộc xâm lược của người Viking đã được lãnh chúa Đan Mạch, Guthrum và vua Tây Saxon Alfred Đại đế đồng ý vào năm 886. Sự chiếm đóng bởi người Viking hai mươi năm sau không tồn tại lâu, và Alfred Đại đế, vua mới của nước Anh, thiết lập hòa bình và dời khu dân cư vào trong khu thành phòng thủ của thành phố La Mã cũ (sau đó gọi là Lundenburgh). Thành phố nguyên thủy trở thành Ealdwīc ("thành phố cũ"), một cái tên tồn tại cho đến ngày nay như là Aldwych. Luân Đôn sau đó tăng trưởng chậm cho đến khoảng 950, sau đó hoạt động tăng lên đáng kể.

    Tiếp sau đó, dưới sự quản lý của nhiều vị vua Anh khác nhau, một lần nữa Luân Đôn lại phát triển như là một trung tâm thương mại quốc tế và chính trị. Tuy vậy, sự càn quét của người Viking lại bắt đầu trong cuối thế kỉ thứ 10, và đạt đến đỉnh cao vào năm 1013 khi họ bao vây thành phố dưới sự chỉ huy của vua Đan Mạch Canute và buộc vua Anh Aethelred II (Aethelred the Unready) tháo chạy. Trong một cuộc tấn công trả đũa, quân đội của Aethelred đã đạt được thắng lợi bằng cách kéo sập cầu Luân Đôn với đồn Đan Mạch ở trên đỉnh, và sự kiểm soát của người Anh lại được tái thiết lập.

    Canute chiếm được ngôi vua Anh vào năm 1017, kiểm soát thành phố và đất nước cho đến năm 1042, khi cái chết của ông ta đã trả lại quyền kiểm soát cho người Anglo-Saxon dưới thời người con ghẻ của ông là Edward Người thú tội (Edward the Confessor), người tái thiết lại Tu viện Westminster và Cung điện Westminster cạnh đó. Vào thời điểm này, Luân Đôn đã trở thành thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất ở Anh, mặc cho địa điểm chính thức của nhà nước vẫn còn ở Winchester.

    Đến thế kỷ 11, Luân Đôn vượt xa mọi thị trấn lớn nhất nước Anh. Cung điện Westminster, được xây dựng lại theo phong cách La Mã của Vua Edward the Confession, là một trong những nhà thờ lớn nhất ở châu Âu. Winchester trước đây là thủ đô của Anglo-Saxon Anh, nhưng kể từ thời điểm này, Luân Đôn trở thành nơi giao thương chính cho các thương nhân nước ngoài và là căn cứ để phòng thủ trong thời chiến. Theo quan điểm của Frank Stenton: "Nó có tài nguyên, và nó đã nhanh chóng phát triển phẩm giá và ý thức chính trị phù hợp với một thủ đô quốc gia."

    Thời Norman và trung cổ  Tháp London, được xây dựng bởi William the Conqueror vào thế kỉ 11

    Theo sau chiến thắng tại Trận chiến Hastings, William I (William the Conqueror), lúc đó là Công tước Normandy, đã đăng quang như Vua của Anh trong Tu viện Westminster vừa mới xây xong vào ngày Giáng sinh năm 1066. William đã cho phép công dân Luân Đôn các đặc quyền, trong khi xây dựng một lâu đài ở góc đông nam của thành phố để kiểm soát họ. Lâu đài này được mở rộng ra bởi các vua sau đó và bây giờ được biết đến như là Tháp Luân Đôn, ban đầu là nơi ở của hoàng gia và sau đó là một nhà tù.

    Vào năm 1097, vua William II bắt đầu việc xây dựng Sảnh đường Westminster, gần với tu viện có cùng tên. Sảnh đường này là cơ sở cho một Cung điện Westminster mới, nơi ở chính của hoàng cung trong suốt thời Trung Cổ. Westminster trở thành nơi thiết triều và nhà nước làm việc (tiếp tục cho đến ngày nay), trong khi khu ngay bên cạnh đó, thành phố Luân Đôn, là một trung tâm thương mại buôn bán phát triển dưới sự điều hành của một cơ quan hành chính khác, Liên hiệp Luân Đôn. Dần dần, các thành phố lân cận phát triển cùng lúc và tạo ra cơ sở cho khu trung tâm Luân Đôn hiện đại, thay thế cho Winchester làm thủ đô của nước Anh vào thế kỉ 12.

    Vào thế kỷ thứ 12, các tổ chức của chính quyền trung ương, đã có cả cung điện hoàng gia Anh khi nó di chuyển khắp đất nước, phát triển về quy mô và sự tinh tế và ngày càng cố định ở một nơi. Đối với hầu hết các mục đích, đây là Westminster, mặc dù ngân khố hoàng gia, đã được chuyển từ Winchester, đến để lưu giữ trong Tháp. Trong khi Thành phố Westminster phát triển thành một thủ đô thực sự theo nghĩa chính phủ, người hàng xóm khác biệt của nó, Thành phố Luân Đôn, vẫn là thành phố lớn nhất và trung tâm thương mại chính của Anh, và nó phát triển mạnh dưới sự quản lý độc đáo của riêng mình, hội đồng London. Năm 1100, dân số khoảng 18.000 người; đến năm 1300, nó đã tăng lên gần 100.000. Thảm họa địch bệnh Cái Chết Đen vào giữa thế kỷ 14 đã ảnh hưởng áng kể đên thành phố, khi Luân Đôn mất gần một phần ba dân số. Luân Đôn là trọng tâm của cuộc nổi dậy của nông dân vào năm 1381.

    Luân Đôn cũng là một trung tâm của người Do Thái ở Anh trước khi họ bị Edward I của Anh trục xuất vào năm 1290. Bạo lực chống lại người Do Thái diễn ra vào năm 1190, sau khi có tin đồn rằng Nhà vua mới đã ra lệnh thảm sát sau khi họ trình bày tại lễ đăng quang của mình. Vào năm 1264 trong Chiến tranh Nam tước thứ hai, phiến quân của Simon de Montfort đã giết 500 người Do Thái trong khi cố gắng thu giữ các hồ sơ về các khoản nợ.

    Thời cận đại  Cung điện Westminster, như đã thấy trong bức tranh này (bởi Canaletto, 1749), là một Di sản thế giới và là một trong những tòa nhà lâu đời nhất và quan trọng nhất của Luân Đôn

    Trong thời kỳ Tudor, cuộc Cải cách Kháng nghị tạo ra sự thay đổi dần dần sang đạo Tin lành, và phần lớn tài sản ở Luân Đôn được chuyển từ nhà thờ sang sở hữu tư nhân, điều này đã thúc đẩy thương mại và kinh doanh trong thành phố. Năm 1475, Liên minh Hanseatic đã thành lập cơ sở thương mại chính (kontor) của Anh tại Luân Đôn, được gọi là Stalhof hoặc Steelyard. Nó tồn tại cho đến năm 1853, khi các thành phố Hanseatic của L Cantereck, Bremen và Hamburg bán tài sản cho Đường sắt Đông Nam. Vải len đã được vận chuyển từ London thế kỷ 14-15 đến bờ biển của các quốc gia kém phát triển, nơi nó được coi là không thể thiếu.

    Nhưng tầm với của doanh nghiệp hàng hải Anh hầu như không mở rộng ra ngoài vùng biển phía tây bắc châu Âu. Tuyến thương mại đến Ý và biển Địa Trung Hải thường đi qua Antwerp và qua dãy núi Alps; bất kỳ tàu nào đi qua eo biển Gibraltar đến hoặc từ Anh đều có khả năng là người Ý hoặc Cộng hòa Ragusa. Sau khi nối lại thông thương với Hà Lan vào tháng 1 năm 1565, đã có sự bùng nổ mạnh mẽ của hoạt động thương mại. Sàn giao dịch Hoàng gia được thành lập. Chủ nghĩa trọng thương phát triển, và các công ty thương mại độc quyền như Công ty Đông Ấn Anh được thành lập, với thương mại mở rộng sang Thế giới mới. Luân Đôn trở thành cảng chính của Biển Bắc, với những người di cư đến từ Anh và nước ngoài. Dân số tăng từ ước tính 50.000 vào năm 1530 lên khoảng 225.000 vào năm 1605.

    Năm 1637, chính quyền Charles I đã cố gắng cải tổ chính quyền ở khu vực Luân Đôn. Kế hoạch kêu gọi Tập đoàn Thành phố mở rộng quyền tài phán và quản lý đối với việc mở rộng các khu vực xung quanh Thành phố. Lo sợ nỗ lực của Vương miện nhằm làm giảm quyền tự do của Luân Đôn, thiếu quan tâm đến việc quản lý các khu vực bổ sung này, hoặc lo ngại bởi các bang hội thành phố phải chia sẻ quyền lực, Tổng công ty đã từ chối. Sau này được gọi là "Sự từ chối vĩ đại", quyết định này phần lớn tiếp tục giải thích cho tình trạng chính phủ duy nhất của Thành phố.

    Trong Nội chiến Anh, phần lớn người dân Luân Đôn ủng hộ sự nghiệp Nghị viện. Sau một bước tiến ban đầu của Hoàng gia vào năm 1642, đỉnh cao là các trận chiến của Brentford và Turnham Green, London được bao quanh bởi một bức tường vành đai phòng thủ được gọi là Đường liên lạc. Các dây chuyền được xây dựng bởi 20.000 người, và được hoàn thành trong vòng chưa đầy hai tháng. Các công sự đã thất bại trong cuộc thử nghiệm duy nhất của họ khi Quân đội mẫu mới tiến vào Luân Đôn vào năm 1647, và chúng đã được Nghị viện san bằng cùng năm.

    Sau khi đánh bại Hạm đội Tây Ban Nha (Spanish Armada) vào năm 1588, sự ổn định chính trị ở Anh cho phép Luân Đôn phát triển thêm. Vào năm 1603, James VI của Scotland lên ngôi vua Anh (trở thành James I của Anh), nhìn chung là thống nhất hai quốc gia. Sự thi hành các luật chống Công giáo hà khắc đã làm ông không được ưa chuộng, và một vụ mưu sát diễn ra vào 5 tháng 11 năm 1605 - vụ Âm mưu thuốc súng nổi tiếng.

     Bản đồ Luân Đôn năm 1593. Chỉ có một cây cầu bắc qua sông Thames, nhưng một phần của Southwark ở bờ nam sông đã được phát triển.

    Dịch bệnh gây ra hàng loạt vấn đề cho Luân Đôn trong đầu thế kỉ 17, dồn lại thành Đại dịch vào năm 1665-1666, làm chết tới 100.000 người, tức là 1/5 dân số thành phố. Đây là đợt bộc phát dịch cuối cùng ở châu Âu, có lẽ là nhờ vào thảm họa theo ngay sau đó vào năm 1666. Một ngọn lửa (Đại hỏa hoạn Luân Đôn) bùng phát ở thành phố nguyên thủy và nhanh chóng lan rộng ra các tòa nhà bằng gỗ ở Luân Đôn, thiêu hủy một phần lớn thành lớn (và giết đi hầu hết các con chuột cống mang mầm bệnh). Công cuộc tái xây dựng kéo dài hơn mười năm và được giám sát bởi Robert Hooke.

    Năm 1708 kiệt tác của Christopher Wren, Nhà thờ St Paul đã hoàn thành. Trong thời kỳ Gruzia, các quận mới như Mayfair được hình thành ở phía tây; những cây cầu mới trên sông Thames khuyến khích sự phát triển ở Nam London. Ở phía đông, Cảng Luân Đôn mở rộng về phía hạ lưu. Sự phát triển của London như là một trung tâm tài chính quốc tế đã trưởng thành trong phần lớn những năm 1700.

    Năm 1762, George III mua lại cung điện Buckingham và nó đã được mở rộng trong 75 năm tiếp theo. Trong thế kỷ 18, Luân Đôn bị bao trùm bởi nạn tội phạm ngày một gia tăng và các vận động viên Bow Street Runners được thành lập vào năm 1750 với tư cách là một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp. Tổng cộng, hơn 200 tội danh đã bị trừng phạt bằng cách hành quyết, bao gồm cả trộm cắp vặt. Hầu hết trẻ em thời kỳ này sinh ra ở thành phố đã chết trước khi đến sinh nhật thứ ba.

    Những quán cà phê trở thành một nơi phổ biến để tranh luận về ý tưởng, với sự biết chữ ngày càng tăng và sự phát triển của báo in khiến tin tức được phổ biến rộng rãi; và phố Fleet trở thành trung tâm của báo chí Anh. Sau cuộc xâm lược Amsterdam của quân đội Napoleon, nhiều nhà tài chính đã chuyển đến Luan Đôn, đặc biệt là một cộng đồng Do Thái lớn, và vấn đề quốc tế đầu tiên ở Luân Đôn được sắp xếp vào năm 1817. Cùng thời gian đó, Hải quân Hoàng gia trở thành hạm đội chiến tranh hàng đầu thế giới, đóng vai trò là công cụ răn đe nghiêm trọng đối với các đối thủ kinh tế tiềm năng của Vương quốc Anh. Việc bãi bỏ Luật Ngô năm 1846 đặc biệt nhằm mục đích làm suy yếu sức mạnh kinh tế của Hà Lan. Luân Đôn sau đó đã vượt qua Amsterdam trở thành trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu. Năm 1888, Luân Đôn trở thành nơi xảy ra một loạt các vụ giết người bởi một kẻ giết người hàng loạt chỉ được biết đến với cái tên Jack the Ripper và nó đã trở thành một trong những bí ẩn chưa được giải quyết nổi tiếng nhất thế giới.

    Sự đi lên của Luân Đôn hiện đại  Tuyển dụng tình nguyện viên người Anh ở Luân Đôn, tháng 8 năm 1914 Trận Đại hỏa hoạn Luân Đôn đã phá hủy nhiều khu vực của thành phố vào năm 1666.

    Sự phát triển của Luân Đôn gia tăng trong thế kỉ 18, và trở thành thành phố lớn nhất trên thế giới vào khoảng 1831 đến 1925. Sự phát triển này được trợ giúp thêm từ năm 1836 bởi hệ thống đường sắt đầu tiên của Luân Đôn làm cho các thành phố ngoại thành nằm trong tầm với dễ dàng của thành phố. Hệ thống đường sắt mở rộng rất nhanh, và làm cho những khu ngoại ô này phát triển trong khi bản thân Luân Đôn mở rộng ra các khu đồng trống xung quanh, nhập chung với những khu dân cư lân cận như là Kensington. Các vụ kẹt đường tăng dần trên các đường trung tâm đã dẫn đến sự hình thành của hệ thống tàu điện ngầm đầu tiên trên thế giới vào năm 1863 - London Underground - góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng và đô thị hóa.

    Chính quyền địa phương Luân Đôn đã vất vả đối phó với sự phát triển nhanh chóng, đặc biệt là trong việc chu cấp cơ sở hạ tầng đầy đủ. Giữa năm 1855 và 1889, Ban quy hoạch đô thị Luân Đôn chỉ đạo việc mở rộng cơ sở hạ tầng ở Luân Đôn. Sau đó được thay thế bởi Quận Luân Đôn, do Hội đồng Quận Luân Đôn - cơ quan hành chánh dân cử đầu tiên của Luân Đôn - chỉ đạo.

    Trong chiến tranh thế giới thứ i, ông giảng dạy từ 1915 đến 1917 (và tìm cách tạo ra một nhà nước Tiệp Khắc độc lập) tại Đại học London sau này là chủ tịch Tiệp Khắc đầu tiên giáo sư Tomáš Garrigue Masaryk.[1]

    The Blitz và các trận bỏ bom khác bởi Luftwaffe của quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai đã giết hại trên 30.000 dân Luân Đôn và làm san bằng nhiều khu nhà cửa và các tòa nhà khác. Việc xây dựng lại trong những năm 1950, 1960 và 1970 được nhận thấy qua một loạt các kiểu kiến trúc khác nhau và kết quả là sự thiếu thống nhất về kiến trúc đã được biết đến như một đặc điểm của Luân Đôn. Trong cùng khoảng thời gian đó, nhiều cuộc di dân lớn, chủ yếu là từ các nước thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh, đã thay đổi cấu trúc dân số của thành phố. Trong năm 1965 những biên giới hành chính của Luân Đôn đã được mở rộng để tính đến sự phát triển của các khu đô thị bên ngoài biên giới của Quận Luân Đôn. Khu vực mở rộng này được gọi là Đại Luân Đôn và được quản lý bởi Hội đồng Đại Luân Đôn.

     Một đường phố Luân Đôn bị ném bom ở trận bỏ bom Blitz trong Thế chiến thứ hai

    Dân số Đại Luân Đôn giảm dần trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới thứ hai, từ mức đỉnh ước tính là 8,6 triệu vào năm 1939 xuống còn khoảng 6,8 triệu vào những năm 1980. Các cảng chính cho Luân Đôn đã di chuyển xuôi dòng đến Felixstowe và Tilbury, với khu vực London Docklands trở thành một trọng tâm để tái sinh, bao gồm cả sự phát triển của Canary Wharf. Điều này đã được phát sinh từ vai trò ngày càng tăng của Luân Đôn như là một trung tâm tài chính quốc tế lớn trong những năm 1980. Rào chắn Thames được hoàn thành vào những năm 1980 để bảo vệ Luân Đôn chống lại các đợt thủy triều từ Biển Bắc.

    Từ những năm 1940 trở đi, Luân Đôn trở thành nơi có nhiều người nhập cư, chủ yếu đến từ các quốc gia Khối thịnh vượng chung như Jamaica, Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan, đưa Luân Đôn trở thành một trong những thành phố đa chủng tộc nhất trên toàn thế giới. Năm 1951, Lễ hội của Anh được tổ chức ở Bờ Nam. Đám sương khói khổng lồ 1952 đã dẫn đến Đạo luật Không khí Sạch năm 1956, chấm dứt nạn "sương mù" mà Luân Đôn vốn đã nổi tiếng.

     Một góc thành phố Luân Đôn bên dòng sông Thames, trong đó có các tòa nhà 20 Fenchurch Street, Tower 42, 122 Leadenhall Street, 30 St Mary Axe, Heron Tower, và bến tàu Tower Millennium, tháp Luân Đôn

    Chủ yếu bắt đầu từ giữa những năm 1960, Luân Đôn trở thành một trung tâm văn hóa giới trẻ trên toàn thế giới, được minh họa bởi văn hóa nhóm văn hóa Luân Đôn gắn liền với Đường King, Chelsea và Phố Carnaby. Vai trò của người tạo ra xu hướng đã được hồi sinh trong thời kỳ punk rock. Năm 1965, ranh giới chính trị của Luân Đôn được mở rộng để tính đến sự tăng trưởng của khu vực đô thị và một Hội đồng Đại Luân Đôn mới được thành lập. Trong xung đột vũ trang ở Bắc Ireland, Luân Đôn đã bị IRA tạm thời tấn công ném bom trong hai thập kỷ, bắt đầu bằng vụ đánh bom Bailey cũ năm 1973. Sự bất bình đẳng về chủng tộc được nhấn mạnh bởi cuộc bạo loạn Brixton năm 1981.

    Một sự vực dậy về kinh tế từ thập niên 1980 trở đi đã tái thiết lập vị trí của Luân Đôn như một trung tâm thương mại nổi bật. Tuy nhiên, vì là nơi của nhà nước và là thành phố quan trọng nhất trong vương quốc, nơi đây là một mục tiêu thường xuyên của khủng bố. Các tay đánh bom thuộc tổ chức IRA tìm cách áp lực lên chính phủ vào việc đàm phán về việc Bắc Ireland, thường xuyên quấy phá hoạt động của thành phố với các lời đe dọa đánh bom - một số được thi hành - cho đến chấp thuận ngừng bắn của họ năm 1997. Gần đây nhất, một vụ đánh bom có tổ chức vào mạng giao thông công cộng được tiến hành bởi các phần tử Hồi giáo cực đoan - chỉ 24 giờ sau khi Luân Đôn được chấp nhận là nơi tổ chức Thế vận hội mùa hè năm 2012.

    Trong năm 2008, tạp chí Time đã chọn Luân Đôn cùng với thành phố New York và Hồng Kông là ba thành phố toàn cầu có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Trong cuộc trưng cầu dân ý Brexit năm 2016, toàn bộ Vương quốc Anh đã quyết định rời Liên minh châu Âu, nhưng phần lớn các cử tri ở Luân Đôn đã bỏ phiếu ở lại EU [2].

     
    Thành phố Luân Đôn từ Nhà thờ St.Paul
    ^ (cs) PRECLÍK, Vratislav. Masaryk a legie (TGM and legions), váz. kniha, 219 p., first issue vydalo nakladatelství Paris Karviná, Žižkova 2379 (734 01 Karviná-Mizerov, Czech Republic) ve spolupráci s Masarykovým demokratickým hnutím (In association with the Masaryk democratic movement in Prague), 2019, ISBN 978-80-87173-47-3, pages 24-30, 168-169, 186 - 187 ^ “Thousands call on Sadiq Khan to declare London's independence”. ngày 24 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
    Read less

Where can you sleep near Luân Đôn ?

Booking.com
490.018 visits in total, 9.198 Points of interest, 404 Đích, 67 visits today.