Auschwitz-Birkenau

( Trại tập trung Auschwitz )

Trại tập trung Auschwitz (tiếng Đức: Konzentrationslager Auschwitz, hay KZ Auschwitz [kɔntsɛntʁaˈtsi̯oːnsˌlaːɡɐ ˈʔaʊʃvɪts]  ( nghe)) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trại bao gồm Auschwitz I (trại đầu tiên), Auschwitz II–Birkenau (tổ hợp trại tập trung và trại hủy diệt), Auschwitz III–Monowitz (trại lao động cung cấp nhân lực cho nhà máy của IG Farben) và 45 trại vệ tinh.

Auschwitz I ban đầu được xây dựng để giam giữ tù nhân chính trị Ba Lan, những người này bắt đầu đến trại vào tháng 5 năm 1940. Đợt hành quyết tù nhân đầu tiên diễn ra vào tháng 9 năm 1941 và Auschwitz II–Birkenau đã tiến đến trở thành địa điểm thực thi chính của kế hoạch "Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái". Giai đoạn từ đầu năm 19...Xem thêm

Trại tập trung Auschwitz (tiếng Đức: Konzentrationslager Auschwitz, hay KZ Auschwitz [kɔntsɛntʁaˈtsi̯oːnsˌlaːɡɐ ˈʔaʊʃvɪts]  ( nghe)) là một mạng lưới các trại tập trung và trại hủy diệt do Đức Quốc Xã dựng lên tại vùng lãnh thổ Ba Lan bị nước này thôn tính trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trại bao gồm Auschwitz I (trại đầu tiên), Auschwitz II–Birkenau (tổ hợp trại tập trung và trại hủy diệt), Auschwitz III–Monowitz (trại lao động cung cấp nhân lực cho nhà máy của IG Farben) và 45 trại vệ tinh.

Auschwitz I ban đầu được xây dựng để giam giữ tù nhân chính trị Ba Lan, những người này bắt đầu đến trại vào tháng 5 năm 1940. Đợt hành quyết tù nhân đầu tiên diễn ra vào tháng 9 năm 1941 và Auschwitz II–Birkenau đã tiến đến trở thành địa điểm thực thi chính của kế hoạch "Giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái". Giai đoạn từ đầu năm 1942 đến cuối năm 1944, những chuyến tàu vận chuyển đã đưa người Do Thái từ khắp mọi vùng lãnh thổ châu Âu do Đức chiếm đóng đến các phòng hơi ngạt của Auschwitz, nơi họ bị giết bằng thuốc trừ sâu Zyklon B. Có ít nhất 1,1 triệu tù nhân đã bỏ mạng ở Auschwitz, khoảng 90% trong số đó là người Do Thái; tính ra thì cứ 6 người Do Thái bị giết trong vụ Holocaust thì 1 người là ở Auschwitz. Những thành phần khác bị trục xuất đến trại gồm có 150.000 người Ba Lan, 23.000 người Di-gan, 15.000 tù binh chiến tranh Liên Xô, 400 tín hữu Nhân chứng Jehovah, và hàng chục ngàn người sở hữu các quốc tịch khác nhau, trong đó có một số lượng không rõ người đồng tính. Hầu hết những người không bị giết trong các phòng hơi ngạt đã chết vì đói, lao động quá sức, bệnh tật, hành quyết đơn lẻ, và các thí nghiệm y khoa.

Trong chiến tranh, trại có 7.000 cán bộ nhân viên đến từ tổ chức Schutzstaffel (SS). Khoảng 12% trong số này về sau đã bị kết án là tội phạm chiến tranh. Một số người, trong đó có sĩ quan chỉ huy Rudolf Höss, bị xử tử. Quân Đồng Minh không tin vào các báo cáo ban đầu về những hành động tàn ác và việc họ không tiến hành ném bom Auschwitz hay các tuyến đường ray dẫn tới trại hiện vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Tổng cộng có 144 tù nhân đào thoát thành công khỏi Auschwitz được biết đến. Ngày 7 tháng 10 năm 1944, hai đơn vị Sonderkommando — những tù nhân xử lý phòng hơi ngạt — đã tiến hành một cuộc nổi dậy ngắn nhưng bất thành.

Vào lúc Hồng quân Liên Xô đến Auschwitz trong tháng 1 năm 1945, hầu hết số người ở trại đã di tản và trải qua một chuyến đi tử thần. Ngày 27 tháng 1 năm 1945, thời điểm mà các tù nhân còn lại trong trại được giải phóng, nay là ngày tưởng niệm Holocaust quốc tế. Trong những thập kỷ tiếp theo, những người sống sót như Primo Levi, Viktor Frankl, Elie Wiesel đã viết hồi ký về trải nghiệm của họ ở Auschwitz và khu trại đã trở thành biểu tượng chủ đạo của Holocaust. Vào năm 1947, Ba Lan thành lập một bảo tàng tại vị trí của Auschwitz I và II và đến năm 1979 trại đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Lịch sử Bối cảnh

Sự phân biệt đối xử nhằm vào người Do Thái bắt đầu ngay lập tức sau khi phe quốc xã lên nắm quyền ở Đức vào ngày 30 tháng 1 năm 1933. Một đạo luật thông qua vào ngày 7 tháng 4 năm đó (Gesetz zur Wiederherstellung des Berufsbeamtentums; trực dịch: Luật vì sự phục hồi của ngành dân chính chuyên nghiệp) đã khai trừ gần như toàn bộ người Do Thái khỏi ngành pháp lý và dân chính. Pháp chế tương tự đã sớm tước bỏ quyền hành nghề của người Do Thái đối với các loại nghề nghiệp khác.[1] Chế độ đã sử dụng bạo lực và áp lực kinh tế để động viên người Do Thái tình nguyện rời đất nước.[2] Các hoạt động kinh doanh của người Do Thái bị tẩy chay và cách ly khỏi thị trường, quảng cáo trên báo bị cấm, và họ không được phép quan hệ với chính quyền. Ngoài ra người Do Thái còn phải chịu đựng sự sách nhiễu và những cuộc tấn công bạo lực.[3]

Vào tháng 9 năm 1935 các đạo luật Nürnberg được ban hành với nội dung ngăn cấm việc kết hôn cũng như những mối quan hệ ngoài hôn nhân giữa người Do Thái và người dòng dõi Đức và cấm thuê phụ nữ Đức dưới 45 tuổi làm người hầu trong các gia đình Do Thái.[4] Luật tư cách công dân Đế chế tuyên bố chỉ những người gốc Đức hay dòng dõi liên quan mới được định nghĩa là công dân, bởi vậy người Do Thái và các nhóm dân tộc thiểu số khác đã bị tước bỏ tư cách công dân Đức.[5] Cho đến thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào năm 1939, đã có khoảng 250.000 trong số 437.000 người Do Thái Đức di cư đến Mỹ, Palestine, Anh và các quốc gia khác.[6][7]

Ý thức hệ của chủ nghĩa quốc xã quy tụ các yếu tố bài Do Thái, thanh lọc chủng tộc, thuyết ưu sinh; kết hợp với chủ nghĩa toàn Đức và chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ với mục tiêu chiếm được nhiều Lebensraum (không gian sống) cho dân tộc Đức.[8] Chế độ quốc xã nỗ lực giành lấy lãnh thổ mới bằng việc xâm lược Ba Lan, Liên Xô và dự định trục xuất hoặc tiêu diệt người Do Thái và người Slav sinh sống ở các quốc gia này, những đối tượng được cho là hạ đẳng so với chủng tộc thượng đẳng Arya.[9] Sau cuộc xâm lược Ba Lan trong tháng 9 năm 1939, lãnh tụ Đức Quốc xã Adolf Hitler đã ra lệnh tận diệt giới lãnh đạo và tri thức Ba Lan.[10] Có khoảng 65.000 dân thường đã bị giết tính đến cuối năm 1939. Bên cạnh những lãnh đạo Ba Lan, Quốc xã còn sát hại người Do Thái, gái mại dâm, người Di-gan, và người mắc bệnh tâm thần.[11][12] Vào ngày 21 tháng 9, SS-Obergruppenführer (trung tướng SS) Reinhard Heydrich, thủ lĩnh Gestapo, đã ra lệnh vây bắt và tập trung người Do Thái vào trong các thành phố có hệ thống đường sắt phù hợp. Ý định ban đầu của Quốc xã là trục xuất người Do Thái đến những nơi xa hơn về phía đông, hoặc có thể là tới đảo Madagascar ở Ấn Độ Dương.[13]

Auschwitz I  Cổng vào Auschwitz I, tọa độ 50°01′39″B 19°12′11″Đ / 50,027606°B 19,203088°Đ / 50.027606; 19.203088 (Site of Auschwitz I entrance with Arbeit Macht Frei (work makes you free) gate) Vị trí của ba trại chính (màu vàng, 1944)

Sau khi một phần Ba Lan bị Đức Quốc Xã thôn tính, thị trấn Oświęcim (Auschwitz) về mặt hành chính đã thuộc nước Đức, nằm ở tỉnh Thượng Silesia, Thượng Đông Silesia, Landkreis Bielitz. SS-Oberführer[a] Arpad Wigand đề xuất nơi đây làm điểm xây dựng một trại tập trung dành cho những tù nhân người Ba Lan. Wigand là phụ tá của Erich von dem Bach-Zelewski, Höherer SS- und Polizeiführer (thủ lĩnh cảnh sát và SS cấp cao) của Silesia và đang tìm nơi chứa tù nhân vì các nhà tù địa phương nay đều đã hết chỗ. Richard Glücks, người đứng đầu Cơ quan thanh tra các trại tập trung, đã cử cựu sĩ quan chỉ huy trại tập trung Sachsenhausen Walter Eisfeld đến để kiểm tra địa điểm. Lúc đó nơi này có 16 tòa nhà một tầng đổ nát từng là doanh trại quân đội của Áo và sau này là của Ba Lan, và một trại dành cho những lao động tạm thời.[14] Tháng 4 năm 1940, Reichsführer-SS (thống chế SS) Heinrich Himmler phê chuẩn địa điểm này và định dùng nó làm nơi giam giữ tù nhân chính trị. Việc xây dựng trại do SS-Obersturmbannführer (trung tá SS) Rudolf Höss, sĩ quan chỉ huy đầu tiên, giám sát. SS-Obersturmführer (trung úy SS) Josef Kramer được bổ nhiệm làm phụ tá của Höss. Auschwitz I, trại đầu tiên, đã trở thành trung tâm hành chính của toàn khu phức hợp.[15][16]

Cư dân địa phương, trong đó có 1.200 người sinh sống trong những căn lều xung quanh doanh trại, bị xua đuổi. 17.000 cư dân Ba Lan và Do Thái ở phía tây Oświęcim bị đuổi khỏi khu vực xung quanh trại trong các năm 1940-41. Giới chức Đức còn ra lệnh trục xuất người Ba Lan ở làng Broszkowice, Babice, Brzezinka, Rajsko, Pławy, Harmęże, Bór, và Budy đến Generalgouvernement.[17] Công dân Đức sẽ được giảm thuế và hưởng những lợi ích khác nếu chuyển đến khu vực này.[18] Cho tới tháng 10 năm 1943, đã có hơn 6.300 người Đức đến đây.[19] Quốc xã lên kế hoạch xây dựng một mô hình khu dân cư hiện đại dành cho người Đức chuyển đến, trong đó có trường học, sân chơi, và những tiện nghi khác. Một số kế hoạch vẫn tiếp diễn như việc thi công hàng trăm căn hộ, tuy nhiên phần nhiều trong số chúng không được hoàn thiện.[20] Các vấn đề cơ bản như nước sạch và hệ thống xử lý nước thải không thỏa đáng và các bệnh từ nước là phổ biến.[21]

Những tù nhân đầu tiên (30 phạm nhân người Đức tới từ trại tập trung Sachsenhausen) đến trại vào tháng 5 năm 1940. Chuyến tàu lớn đầu tiên đến Auschwitz vào ngày 14 tháng 6 năm 1940 với thành phần gồm những người tù Công giáo, những người bị tình nghi thuộc phe kháng chiến, và 20 người Do Thái tới từ nhà tù ở Tarnów, Ba Lan. Họ bị quản thúc trong một tòa nhà ngay gần đó chờ tới khi trại sẵn sàng.[15][22]

Số lượng tù nhân gia tăng nhanh chóng khi trại tiếp nhận những kẻ chống đối và giới tri thức Ba Lan. Tính đến tháng 3 năm 1941, số người bị giam giữ ở Auschwitz là 10.900, chủ yếu là người Ba Lan.[15] Đến cuối năm 1940, SS đã thu hồi những khu đất quanh trại để tạo lập một vùng có diện tích 40 km² bao bọc bởi hai hàng rào thép gai và những tháp canh.[23] Cũng như các trại tập trung khác của Đức Quốc xã, trên cánh cổng vào Auschwitz I có hiển thị câu khẩu hiệu Arbeit macht frei ("lao động mang đến sự tự do").[24]

Auschwitz II-Birkenau  Ảnh theo dõi Birkenau chụp từ máy bay Mỹ (1944, trong bức ảnh này hướng nam ở phía trên). Kính mắt của các nạn nhân

Những thắng lợi ban đầu của chiến dịch Barbarossa vào mùa hè và thu năm 1941 trước kẻ thù mới Liên Xô đã dẫn tới sự thay đổi sâu sắc trong ý thức hệ bài Do Thái của Đức Quốc xã và lai lịch của những tù nhân bị đưa đến Auschwitz.[25] Vào tháng 10 năm 1941, Auschwitz II-Birkenau khởi công xây dựng để giảm tải cho trại chính. Reichsführer-SS Heinrich Himmler dự định đây sẽ là nơi dành cho 50.000 tù binh chiến tranh, những đối tượng sẽ được dùng làm lao động khổ sai. Các kế hoạch hướng đến mục tiêu mở rộng trại để giam giữ ban đầu là 150.000 và cuối cùng là 200.000 tù nhân.[26] Vào tháng 10 năm 1941 có 10.000 tù binh chiến tranh Liên Xô tới Auschwitz I, đến tháng 3 năm 1942 chỉ còn 945 người còn sống và bị chuyển đến Birkenau, và đến tháng 5 hầu hết trong số họ đã chết vì đói và bệnh tật.[27] Trước đó Hitler đã đi đến quyết định tàn sát người Do Thái, cho nên Birkenau sở hữu thêm chức năng, trở thành một tổ hợp trại lao động và trại hủy diệt.[27][28]

Người đứng đầu phụ trách việc xây dựng Auschwitz II-Birkenau là Karl Bischoff. Khác với người tiền nhiệm, Bischoff là một công chức có tài và năng nổ. Trại Birkenau gồm bốn nhà thiêu và hàng trăm tòa nhà khác được lên kế hoạch và thực hiện. Bischoff ban đầu dự kiến bố trí 550 tù nhân mỗi doanh trại; về sau con số này tăng lên thành 744. Sức chứa của những công trình dùng làm chỗ cư ngụ cho tù nhân không lớn bằng sức chứa của những công trình dùng để tiêu diệt họ.[29]

Phòng hơi ngạt đầu tiên ở Birkenau là "nhà đỏ" (nhân viên SS gọi là Bunker 1), một ngôi nhà gạch được chuyển đổi bằng cách dọn sạch bên trong thành một khoang trống và xây gạch bít các cửa sổ. Bunker 1 hoạt động đến tháng 3 năm 1942. Ngôi nhà gạch thứ hai, "nhà trắng" hay Bunker 2, trở thành phòng hơi ngạt sau Bunker 1 vài tuần.[30][31] Các công trình này phục vụ việc hành quyết hàng loạt cho tới đầu năm 1943.[32] Trong các ngày 17 và 18 tháng 7 năm 1942, Himmler đích thân tới thăm trại. Ông trình bày về việc hành quyết hàng loạt bằng phòng hơi ngạt ở Bunker 2 và tới thăm địa điểm mà nhà máy mới của IG Farben đang thi công tại thị trấn Monowitz gần đó.[33]

Vào đầu năm 1943, Quốc xã quyết định tăng cường mạnh năng lực tàn sát của Birkenau. Nhà thiêu II ban đầu thiết kế làm nơi xử lý xác với các nhà xác dưới tầng hầm và lò thiêu trên mặt đất đã được chuyển đổi thành một nhà máy giết người bằng cách tạo ra thêm những cánh cửa kín, những lỗ thông để đổ Zyklon B vào phòng, và thiết bị thông hơi để loại bỏ hơi độc sau đó.[34] Tòa nhà bắt đầu hoạt động từ tháng 3. Nhà thiêu III áp dụng kiểu thiết kế tương tự. Các nhà thiêu IV và V cũng được thi công trong mùa xuân năm đó. Đến tháng 6 năm 1943, cả bốn nhà thiêu đã đi vào hoạt động. Xét số nạn nhân bị giết thì hầu hết là ở bốn tòa nhà này.[35]

Trại Di-gan  Zigeunermischlinge (những đứa trẻ Di-gan lai) được sử dụng trong các nghiên cứu về chủng tộc của nhà nhân chủng học và tâm lý học người Đức Eva Justin. Trong số 39 đứa trẻ bị đưa đến Auschwitz, chỉ có 2 là sống sót.[36]

Vào ngày 10 tháng 12 năm 1942, Himmler phát đi mệnh lệnh đem tất cả người Di-gan đến các trại tập trung, trong đó có Auschwitz.[37] Một trại riêng được tạo lập tại Auschwitz II-Birkenau dành cho đối tượng này gọi là Zigeunerfamilienlager (trại tộc người Di-gan). Chuyến tàu chở người Di-gan Đức đầu tiên đến trại vào ngày 26 tháng 2 năm 1943 và họ bị giam trong khu B-IIe của Auschwitz II. Đến năm 1944, đã có khoảng 23.000 người Di-gan bị đưa đến Auschwitz và 20.000 người trong số đó đã bỏ mạng nơi đây.[38] Có 1.700 người Di-gan Ba Lan trong một đợt vận chuyển đã bị giết khi tới trại do bị nghi ngờ nhiễm sốt đốm.[39]

Tù nhân người Di-gan được sử dụng chủ yếu cho việc xây dựng.[39] Hàng ngàn người đã chết vì thương hàn (bệnh gây bởi vi sinh vật Rickettsia) và cam tẩu mã do tình trạng quá đông, vệ sinh tồi tệ, và suy dinh dưỡng.[38] Có từ 1.400 đến 3.000 tù nhân đã được chuyển đến các trại tập trung khác trước khi số còn lại bị sát hại.[b]

Vào ngày 2 tháng 8 năm 1944, quân SS "dọn dẹp" trại Gypsy. Một nhân chứng về sau cho biết những người Di-gan đã chiến đấu chống lại SS trước khi bị đưa lên xe. Sau đó, toàn bộ 2.897 người còn sống đều bị tàn sát trong phòng hơi ngạt.[41] Vụ tàn sát người Di-gan do Đức Quốc xã thực hiện trong chiến tranh thế giới thứ hai được biết đến với tên gọi Porajmos (tàn phá) trong tiếng Di-gan.[42]

Auschwitz III  Nhà máy của IG Farben đang thi công, 1942

Sau khi khảo sát một số nơi để xây dựng nhà máy chế tạo buna (một loại cao su tổng hợp), nhà sản xuất hóa chất IG Farben đã chọn địa điểm gần thị trấn Dwory và Monowice (Monowitz trong tiếng Đức), cách Auschwitz I khoảng 7 km (4,3 dặm) và thị trấn Oświęcim khoảng 3 km (1,9 dặm) cùng về phía đông.[43] Các tập đoàn đã được hỗ trợ về tài chính dưới hình thức miễn trừ thuế để chuẩn bị cho việc phát triển các ngành công nghiệp ở vùng biên giới nhờ một đạo luật thông qua vào tháng 12 năm 1940. Ngoài việc ở gần trại tập trung, một nguồn cung lao động giá rẻ có thể khai thác, địa điểm này còn sở hữu hệ thống đường sắt phù hợp và tiếp cận được tới những nguồn nguyên liệu thô.[44] Vào tháng 2 năm 1941, Himmler ra lệnh trục xuất số dân Do Thái ở Oświęcim để nhường chỗ cho những lao động có tay nghề sẽ được đưa tới làm việc tại nhà máy. Tất cả những người Ba Lan có khả năng làm việc được giữ lại và bị ép làm thợ xây dựng.[45] Sang tháng 3 Himmler đích thân tới thăm nơi này và ra lệnh mở rộng trại lớn đến sức chứa 30.000 người ngay lập tức. Việc phát triển trại tại Birkenau bắt đầu khoảng 6 tháng sau.[46] Auschwitz IG khởi công trong tháng 4 với 1.000 công nhân ban đầu tới từ Auschwitz I được giao cho việc xây dựng; con số này về sau tăng lên thành 7.000 trong năm 1943 và 11.000 năm 1944.[47] Tổng cộng có khoảng 35.000 tù nhần làm việc tại nhà máy, trong đó 25.000 người đã chết vì suy dinh dưỡng, bệnh tật, và vì khối lượng công việc quá lớn.[48] Bên cạnh những tù nhân của trại tập trung, thành phần chiếm 1/3 lực lượng lao động, Auschwitz IG còn sử dụng những lao động nô lệ tới từ khắp châu Âu.[49]

Ban đầu những công nhân đi bộ 7 km từ Auschwitz I tới nhà máy mỗi ngày, nhưng bởi điều này đồng nghĩa với việc họ phải thức dậy từ 3 giờ sáng, rất nhiều người đã đến nơi trong tình trạng kiệt sức và không thể làm việc. Trại ở Monowitz (còn gọi là Monowitz-Buna hay Auschwitz III) được xây dựng và bắt đầu hoạt động từ ngày 30 tháng 10 năm 1942.[50] Vào tháng 1 năm 1943 ArbeitsausbildungLager (trại đào tạo lao động) di dời từ trại lớn đến Monowitz và những tù nhân này cũng bị ép làm việc ở công trường thi công.[50] SS đòi IG Farben 3 Reichsmark/giờ cho lao động phổ thông, 4 Reichsmark/giờ cho lao động có tay nghề (thợ lành nghề).[51] Trong khi các nhà quản lý trại mong đợi tù nhân làm việc đạt năng suất bằng 75% lao động tự do, con số thực tế chỉ là từ 20 đến 50%.[50] Họ liên tục đe dọa tù nhân về việc bị trục xuất đến Birkenau rồi hành quyết trong phòng hơi ngạt như một cách để gia tăng năng suất.[52] Gần 1/5 số tù nhân của Monowitz bị chuyển đến và sát hại trong phòng hơi ngạt ở Birkenau mỗi tháng, thay thế là những người mới đến.[53] Quãng thời gian tồn tại ở Monowitz trung bình của mỗi tù nhân là khoảng 3 tháng.[52] Ban đầu nhà máy được dự kiến bắt đầu hoạt động trong năm 1943, tuy nhiên tình trạng thiếu lao động và nguyên liệu thô đã khiến việc khởi động bị trì hoãn nhiều lần.[49] Vào lúc quân đội Liên Xô tràn tới khu vực này trong năm 1945, nhà máy gần như đã sẵn sàng bước vào sản xuất.[54]

Trại con

Các hãng công nghiệp khác của Đức như Krupp và Siemens-Schuckert đã dựng lên những nhà máy cùng những trại con của riêng họ.[51] Có 45 trại vệ tinh như vậy, 28 trong số chúng phục vụ các tập đoàn tham gia vào ngành công nghiệp sản xuất vũ khí. Số tù nhân dao động từ vài chục đến vài nghìn.[55] Các trại con được xây tại Blechhammer, Jawiszowice, Jaworzno, Lagisze, Mysłowice, Trzebinia, và một số địa điểm khác.[56][57][58] Chúng được gọi là Aussenlager (trại ngoài), Nebenlager (trại con, trại phụ, trại mở rộng), hoặc Arbeitslager (trại lao động).[59] Tù nhân ở những trại này làm việc ở mỏ than, xưởng đúc kim loại, nhà máy hóa chất, trong lĩnh vực nông hay lâm nghiệp, v.v...[56]

Di tản, cuộc tuần hành tử thần và giải phóng  Những tù nhân trẻ tuổi còn sống được Hồng quân Liên Xô giải phóng trong tháng 1 năm 1945

Vào tháng 11 năm 1944, trong lúc Hồng quân Liên Xô đang tiến quân qua lãnh thổ Ba Lan, Himmler đã ra lệnh ngừng các hoạt động hành quyết bằng khí độc trên toàn bộ những vùng đất mà Đức còn đang kiểm soát (toàn Đế chế). Các nhà thiêu II, III, và IV bị phá hủy còn nhà thiêu I được chuyển đổi thành chỗ trú ẩn máy bay. Sonderkommando được lệnh tiêu hủy những chứng cứ khác về cuộc tàn sát, trong đó có các hố chôn tập thể.[60] Quân SS đã thủ tiêu những văn bản ghi chép; đốt cháy hoặc phá hủy nhiều tòa nhà trong tuần cuối cùng trước ngày trại giải phóng.[61]

Tới tháng 1 năm 1945, Himmler ra lệnh di tản tất cả các trại và giao nhiệm vụ cho những chỉ huy trại rằng "phải đảm bảo không một tù nhân nào của các trại tập trung rơi vào tay kẻ thù mà còn sống."[62] Vào ngày 17 tháng 1, 58.000 tù nhân Auschwitz được đưa đi di tản, hầu hết là đi bộ; hàng ngàn người đã chết trong cuộc hành trình tử thần về phía tây đến Wodzisław Śląski sau đó.[63] Có khoảng 20.000 tù nhân Auschwitz đã đến trại tập trung Bergen-Belsen ở Đức và được quân Anh giải phóng trong tháng 4 năm 1945.[64]

Những người quá yếu không thể đi bộ bị bỏ lại phía sau. Vào lúc mà Sư đoàn súng trường 322 của Hồng quân tới trại trong ngày 27 tháng 1, họ phát hiện thấy có khoảng 7.500 tù nhân và 600 xác chết bị bỏ lại. Trong số những vật dụng mà binh sĩ Liên Xô tìm được có 370.000 bộ quần áo nam, 837.000 bộ quần áo nữ, và 7,7 tấn (8,5 tấn thiếu) tóc người.[65]

Tại thời điểm đó, sự kiện giải phóng Auschwitz ít nhận được sự quan tâm của báo giới. Nhà sử học người Anh Laurence Rees cho rằng điều này là do ba yếu tố: việc khám phá ra những tội ác tương tự tại trại tập trung Majdanek trước đó, những tin tức cạnh tranh đến từ cuộc gặp thượng đỉnh của Đồng Minh ở bán đảo Krym, và việc Liên Xô giảm thiểu hóa sự chú ý đến nỗi thống khổ của người Do Thái vì mục đích tuyên truyền.[66] Bởi trại có quy mô rất lớn, đã có ít nhất bốn sư đoàn tham gia giải phóng Auschwitz: Sư đoàn súng trường 100 (thành lập ở Vologda), Sư đoàn súng trường 322 (Nizhny Novgorod), Sư đoàn súng trường 286 (Leningrad), và Sư đoàn súng trường mô tô 107 (Tambov).[67]

Sau chiến tranh  Tàn tích các doanh trại ở Birkenau. Gần như tất cả những gì còn lại là bếp lò và ống khói.

Sau khi được giải phóng, Auschwitz I trở thành một bệnh viện cho những tù nhân sống sót.[68] Các điều tra viên Ba Lan và Liên Xô đã tìm hiểu tội ác chiến tranh của SS trong những tháng đầu tiên.[69] Giai đoạn hai năm tiếp theo, Liên Xô đã tháo dỡ và xuất khẩu các nhà máy của IG Farben; còn các doanh trại Birkenau thì bị thường dân Ba Lan cướp bóc.[68][70] Cư dân địa phương đã tiếp cận các hố chôn tập thể và tro để tìm vàng.[71] Cho đến năm 1947, một số cơ sở đã được sử dụng làm trại giam của NKVD.[72]

Công cuộc khai quật kéo dài hơn một thập kỷ kể từ thời điểm trại trở thành một bảo tàng vào năm 1947.[73] Tù nhân Auschwitz sống thọ nhất được biết đến là Antoni Dobrowolski; ông qua đời vào ngày 21 tháng 10 năm 2012 tại Dębno, Ba Lan ở tuổi 108.[74]

 Giá treo cổ tại Auschwitz I, Rudolf Höss bị xử tử ở đây vào ngày 16 tháng 4 năm 1947

Chỉ huy trại Rudolf Höss bị Quân đoàn Tình báo Anh truy nã và bắt giữ tại một nông trại gần Flensburg, Đức vào ngày 11 tháng 3 năm 1946. Höss đã thú nhận vai trò của bản thân trong hồi ký và trong phiên tòa ở Warsaw, Ba Lan. Cựu sĩ quan SS bị kết tội giết người và treo cổ tại trại vào ngày 16 tháng 4 năm 1947.[75][76]

Có khoảng 12% trong số 6.500 nhân viên Auschwitz sống sót qua cuộc chiến bị đem ra xét xử. So với các quốc gia khác, Ba Lan là nước tích cực hơn trong việc điều tra những tội ác chiến tranh.[77] Vào ngày 25 tháng 11 năm 1947, phiên tòa Auschwitz khởi động ở Kraków. Tòa án Quốc gia Tối cao của Ba Lan đã đem 40 cựu nhân viên Auschwitz ra tòa. Trong số các bị cáo có sĩ quan chỉ huy Arthur Liebehenschel, thủ lĩnh trại nữ Maria Mandel, và thủ lĩnh trại Hans Aumeier. Phiên tòa kết thúc vào ngày 22 tháng 12 năm 1947 với 23 án tử hình, 7 án tù chung thân, 9 án tù dao động từ 3 đến 15 năm. Hans Münch, bác sĩ SS có một số cựu tù nhân thay mặt làm chứng, là người duy nhất được trắng án.[75]

Còn một số cựu nhân viên Auschwitz khác bị kết án treo cổ vì phạm tội ác chiến tranh ở phiên tòa Dachau và phiên tòa Belsen, trong đó có thủ lĩnh trại Josef Kramer, Franz Hössler, Vinzenz Schöttl; bác sĩ Friedrich Entress; quản trại Irma Grese và Elisabeth Volkenrath.[78] Giai đoạn từ ngày 20 tháng 12 năm 1963 đến 20 tháng 8 năm 1965 đã diễn ra phiên tòa Auschwitz Frankfurt ở Tây Đức; kết quả là 17 trong số 22 bị cáo bị kết án tù dao động từ 3 tháng, 3 năm, cho đến chung thân.[79] Bruno Tesch và Karl Weinbacher, chủ sở hữu và tổng giám đốc công ty Tesch & Stabenow, một trong những nhà cung cấp Zyklon B, bị xử tử vì cố ý cấp hóa chất cho việc sử dụng trên người.[80]

^ Longerich 2010, tr. 38–39. ^ Longerich 2010, tr. 67–69. ^ Longerich 2010, tr. 41. ^ Kershaw 2008, tr. 346. ^ Evans 2005, tr. 544. ^ Longerich 2010, tr. 127. ^ Evans 2005, tr. 555. ^ Evans 2005, tr. 7. ^ Longerich 2010, tr. 132. ^ Longerich 2010, tr. 144. ^ Evans 2008, tr. 15. ^ Longerich 2012, tr. 430–432. ^ Longerich 2010, tr. 148–149. ^ Dwork & van Pelt 2002, tr. 166. ^ a b c Gutman 1994, tr. 10, 16. ^ Steinbacher 2005, tr. 22–23. ^ Oswiecim 60th Anniversary. ^ Steinbacher 2005, tr. 63. ^ Steinbacher 2005, tr. 72. ^ Steinbacher 2005, tr. 67, 69. ^ Steinbacher 2005, tr. 73. ^ Nagorski 1995. ^ Steinbacher 2005, tr. 27. ^ Rees 2005, tr. 9. ^ Longerich 2010, tr. 260–262, 264–265, 270. ^ Steinbacher 2005, tr. 89. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 94. ^ Longerich 2010, tr. 282–283. ^ BBC Television 2005. ^ Rees 2005, tr. 96–97, 101. ^ Piper 1994c, tr. 161. ^ Steinbacher 2005, tr. 98. ^ Steinbacher 2005, tr. 106. ^ Steinbacher 2005, tr. 100–101. ^ Rees 2005, tr. 168–169. ^ Barth 2005, tr. 122. ^ Longerich 2012, tr. 670. ^ a b Rees 2005, tr. 248. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 110. ^ Steinbacher 2005, tr. 111. ^ a b Rees 2005, tr. 251. ^ Hancock 1997, tr. 339. ^ Steinbacher 2005, tr. 45. ^ Hilberg 1994, tr. 81–82. ^ Steinbacher 2005, tr. 49. ^ Hilberg 1994, tr. 82. ^ Steinbacher 2005, tr. 51. ^ Steinbacher 2005, tr. 51, 53, 55. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 52. ^ a b c Steinbacher 2005, tr. 53. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 57. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 56. ^ Krakowski 1994, tr. 57. ^ Steinbacher 2005, tr. 129. ^ Gutman 1994, tr. 17–18. ^ a b Gutman 1994, tr. 18. ^ Piper 1994a, tr. 45. ^ Steinbacher 2005, tr. 58. ^ Gutman 1994, tr. 17. ^ Steinbacher 2005, tr. 123–124. ^ Steinbacher 2005, tr. 126–127. ^ Friedlander 2009, tr. 648. ^ Steinbacher 2005, tr. 125–126. ^ Rees 2005, tr. 265. ^ Steinbacher 2005, tr. 128. ^ Rees 2005, tr. 261–262. ^ Norin 2015. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 130. ^ Strzelecki, Liberation. ^ Rees 2005, tr. 293. ^ Rees 2005, tr. 294. ^ Steinbacher 2005, tr. 131. ^ Steinbacher 2005, tr. 132. ^ CBS News 2012. ^ a b Steinbacher 2005, tr. 138–139. ^ Rees 2005, tr. 289–291. ^ Rees 2005, tr. 295–296. ^ Steinbacher 2005, tr. 140. ^ Steinbacher 2005, tr. 146–149. ^ Evans 2008, tr. 744.


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref> với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group="lower-alpha"/> tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref> bị thiếu

Photographies by:
Statistics: Position
529
Statistics: Rank
174591

Viết bình luận

CAPTCHA
Security
628135794Click/tap this sequence: 8885
Câu hỏi này dùng để kiểm tra xem bạn là người hay là chương trình tự động.

Google street view

Where can you sleep near Trại tập trung Auschwitz ?

Booking.com
491.301 visits in total, 9.211 Points of interest, 405 Đích, 145 visits today.