Hồ Baikal (phiên âm tiếng Việt: Hồ Bai-can; Nga: о́зеро Байка́л, chuyển tự. Ozero Baykal, IPA: [ˈozʲɪrə bɐjˈkal]; tiếng Buryat Nga: Байгал нуур, tiếng Mông Cổ: Байгал нуур, Baygal nuur, nghĩa là "hồ tự nhiên"; tiếng Kyrgyz: Байкол) là hồ đứt gãy lục địa ở Nga, thuộc phía nam Siberi, giữa tỉnh Irkutsk ở phía tây bắc và Cộng hòa Buryatia ở phía đông nam.

Đây là hồ nước ngọt có lượng nước lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 22-23% tổng lượng nước ngọt không bị đóng băng quanh năm trên bề mặt thế giới. Với 23.615,39 km3 (5.670 mi khối) nước ngọt, nó nhiều hơn cả năm hồ nước của Ngũ Đại Hồ cộng lại. Độ sâu tối đa của hồ là 1.642 m (5.387 ft), nên Baikal chính là hồ sâu n...Xem thêm

Hồ Baikal (phiên âm tiếng Việt: Hồ Bai-can; Nga: о́зеро Байка́л, chuyển tự. Ozero Baykal, IPA: [ˈozʲɪrə bɐjˈkal]; tiếng Buryat Nga: Байгал нуур, tiếng Mông Cổ: Байгал нуур, Baygal nuur, nghĩa là "hồ tự nhiên"; tiếng Kyrgyz: Байкол) là hồ đứt gãy lục địa ở Nga, thuộc phía nam Siberi, giữa tỉnh Irkutsk ở phía tây bắc và Cộng hòa Buryatia ở phía đông nam.

Đây là hồ nước ngọt có lượng nước lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 22-23% tổng lượng nước ngọt không bị đóng băng quanh năm trên bề mặt thế giới. Với 23.615,39 km3 (5.670 mi khối) nước ngọt, nó nhiều hơn cả năm hồ nước của Ngũ Đại Hồ cộng lại. Độ sâu tối đa của hồ là 1.642 m (5.387 ft), nên Baikal chính là hồ sâu nhất thế giới được coi là một trong số những hồ trong nhất và cũng là hồ lâu đời nhất thế giới. khi nó hình thành cách đây 25-30 triệu năm trước. Xét về diện tích bề mặt, đây là hồ nước lớn thứ bảy trên thế giới.

Tương tự như hồ Tanganyika, hồ Baikal được hình thành từ một thung lũng tách giãn cổ có hình lưỡi liềm dài với diện tích bề mặt 31.722 km2 (12.248 dặm vuông Anh), nhỏ hơn so với hồ Superior hay hồ Victoria. Baikal là nhà của hàng ngàn loài động thực vật, nhiều trong số đó không thể tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Chính vì vậy, hồ Baikal đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 1996. Khu vực phía đông bờ hồ là nơi sinh sống của các bộ lạc người Buryat, họ chăn nuôi dê, lạc đà, bò và cừu, trong một môi trường khắc nghiệt khi nhiệt độ trung bình tối thiểu vào mùa đông là −19 °C (−2 °F) và tối đa trong mùa hè chỉ là 14 °C (57 °F).

Khu vực phía đông của hồ Baikal được gọi là Ngoại Baikal và khu vực quanh hồ đôi khi được gọi đơn giản là Baikalia.

Lịch sử

Khu vực Baikal, đôi khi được gọi là Baikalia, đã có một lịch sử lâu dài về sự định cư của con người. Một bộ lạc đc biết đến sớm nhất trong khu vực là người Kurykan.[1]

Nằm trong lãnh thổ cũ phía bắc của người Hung Nô, đây là một trong những nơi diễn ra Chiến tranh Hán-Hung Nô, nơi quân đội của nhà Hán truy đuổi và đánh bại lực lượng Hung Nô từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Họ đã ghi lại rằng, hồ nước là một "biển lớn" và gọi nó là "Bắc Hải" (北海), một trong Tứ Hải của Trung Quốc cổ đại.[2] Bộ lạc người Kurykan nguồn gốc từ Siberi định cư tại đây vào thế kỷ thứ 6 đặt cho nó một cái tên dịch ra có nghĩa là "nhiều nước". Sau này nó được những người Buryat gọi là "Hồ tự nhiên" (Baygal nuur) và "Hồ giàu có" (Bay göl) bởi những người Yakut.[3] Rất ít những người châu Âu biết về hồ nước này cho đến thế kỷ thứ 17, khi lãnh thổ của Nga mở rộng đến đây. Nhà thám hiểm người Nga đầu tiên đến đây là Kurbat Ivanov vào năm 1643.[4]

Sự bành trướng của Sa quốc Nga vào khu vực của người Buryat nằm quanh hồ Baikal[5] từ 1628–58 như là một phần của Cuộc chinh phạt của người Nga ở Siberia. Quân đội Nga theo dòng sông Angara ngược từ Yeniseysk (thành lập năm 1619) và sau đó di chuyển về phía nam từ sông Lena. Người Nga lần đầu tiên nghe nói về lãnh thổ của những người Buryat vào năm 1609 tại Tomsk. Theo truyện dân gian liên quan sau thực tế khoảng một thế kỷ thì vào năm 1623, Demid Pyanda, người có thể là người Nga đầu tiên đến Lena khi đi từ thượng lưu Lena đến Angara và đến Yeniseysk.[6]

Vikhor Savin (1624) và Maksim Perfilyev (1626 và 1627–28) đã khám phá vùng đất của người Tungus ở hạ lưu Angara. Ở phía tây, Krasnoyarsk trên thượng lưu sông Yenisei được thành lập vào năm 1627. Một số cuộc thám hiểm không có tài liệu được khám phá về phía đông từ Krasnoyarsk. Năm 1628, Pyotr Beketov lần đầu tiên bắt một nhóm người Buryat nộp các cống phẩm (Yasak) tại địa điểm mà sau này là Bratsk. Năm 1629, Yakov Khripunov lên đường từ Tomsk để tìm kiếm một mỏ bạc được đồn đại. Người của ông sớm bắt đầu cướp bóc cả người Nga và người bản địa. Họ có thêm một nhóm bạo loạn khác từ Krasnoyarsk tham gia cùng, nhưng đã rời khỏi vùng đất của người Buryat khi thiếu lương thực. Điều này gây khó khăn cho những người Nga khác khi vào khu vực này. Năm 1631, Maksim Perfilyev xây dựng một pháo đài gỗ (Ostrog) tại Bratsk. Đến năm 1634, Bratsk đã bị phá hủy và quân đồn trú tại đây đều bị giết. Bratsk phục hồi bằng một cuộc viễn chinh chinh phạt dưới thời Radukovskii một năm sau đó. Năm 1638, nó tiếp tục bị bao vây nhưng không thành công.

Năm 1638, Perfilyev đã đi từ Angara qua Ilim đến sông Lena và đi xuôi dòng cho đến tận Olyokminsk. Trở về, ông đã đi thuyền trên sông Vitim vào khu vực phía đông hồ Baikal (1640), nơi ông nghe báo cáo về một đất nước Amur. Năm 1641, Verkholensk được thành lập tại thượng lưu sông Lena. Năm 1643, Kurbat Ivanov đã đi ngược dòng Lena xa hơn nữa về phía thượng nguồn, và ông trở thành người Nga đầu tiên nhìn thấy hồ Baikal và đảo Olkhon. Một nửa nhóm của ông vẫn ở lại hồ, đến Thượng Angara ở phía bắc, và trú đông trên sông Barguzin ở phía đông bắc.

Năm 1644, Ivan Pokhabov đi từ sông Angara đến Baikal, có lẽ trở thành người Nga đầu tiên sử dụng tuyến đường này, vì đây là con đường vô cùng hiểm trở khi có rất nhiều thác ghềnh. Ông băng qua hồ và khám phá hạ lưu sông Selenge. Khoảng năm 1647, ông lặp lại chuyến đi một lần nữa, có người hướng dẫn và đến thăm một 'Tsetsen Khan' gần Ulaabaatar. Năm 1648, Ivan Galkin xây dựng một pháo đài gỗ trên sông Barguzin mà đã trở thành một trung tâm từ đó mở rộng về phía đông. Năm 1652, Vasily Kolesnikov đã báo cáo rằng có thể đến Amur bằng cách theo sông Selenga, Uda và Khilok đến các địa điểm mà sau này là Chita và Nerchinsk. Năm 1653, Pyotr Beketov đi theo tuyến đường mà Kolesnikov sử dụng để đến hồ Irgen phía tây Chita, và mùa đông năm đó, một người của ông có tên là Urasov đã thành lập Nerchinsk. Nerchinsk đã bị phá hủy bởi người Tungus địa phương, nhưng được khôi phục vào năm 1658.

Đường sắt xuyên Sibir được xây dựng giữa năm 1896 đến 1902 băng qua khu vực này thông qua đường sắt Circum-Baikal ở cuối tây nam hồ Baikal cần phải sử dụng 200 cây cầu và 33 đường hầm. Cho đến khi hoàn thành, một chuyến phà đã vận chuyển các toa tàu băng qua hồ từ cảng Baikal đến Mysovaya trong một số năm. Khi đường sắt được xây dựng, một đoàn thám hiểm thủy văn lớn do F.K. Drizhenko lãnh đạo đã vẽ bản đồ đường viền chi tiết đầu tiên của hồ.

Hồ Baikal trở thành một chiến trường nhỏ giữa Quân đoàn Tiệp Khắc và Hồng Quân Liên Xô vào năm 1918. Vào những thời điểm hồ bị đóng băng, có thể đi bộ qua hồ mặc dù nguy cơ bị bỏng lạnh và hạ thân nhiệt có thể gây chết người bởi những cơn gió lớn và lạnh thổi qua mà không bị cản trở trên những dải băng phẳng. Vào mùa đông năm 1920, lực lượng Bạch Vệ rút lui khi băng qua hồ Baikal đóng băng. Gió trên mặt hồ khi ấy rất lạnh khiến nhiều người chết và bị đóng băng tại chỗ cho đến khi tan băng vào mùa xuân. Bắt đầu từ năm 1956, đập Irkutsk trên sông Angara được xây dựng khiến mực nước trong hồ nâng lên cao đã nâng mực nước hồ lên 1,4 m (4,6 ft).[7]

Buryat Shaman giáo trên đảo Olkhon 
Buryat Shaman giáo trên đảo Olkhon
Bản đồ circa 1700, mô tả Baikal (không theo tỉ lệ) phía trên 
Bản đồ circa 1700, mô tả Baikal (không theo tỉ lệ) phía trên
Đầu máy hơi nước trên đường sắt Circum-Baikal 
Đầu máy hơi nước trên đường sắt Circum-Baikal
Angara (ru) được ra mắt vào năm 1900 và là một trong những tàu phá băng lâu đời nhất còn sót lại. 
Angara (ru) được ra mắt vào năm 1900 và là một trong những tàu phá băng lâu đời nhất còn sót lại.
^ Lincoln, W.B. (2007). The Conquest of a Continent: Siberia and the Russians. Cornell University Press. tr. 246. ISBN 978-0-8014-8922-8. ^ Yap, Joseph (2009). Các cuộc chiến tranh với Hung Nô: Một bản dịch từ Tư trị thông giám. AuthorHouse. tr. 276. ISBN 9781449006051. Truy cập 25 tháng 7 năm 2012. ^ Lincoln, W. Bruce (2007). The Conquest of a Continent: Siberia and the Russians. Cornell University Press. tr. 246. ISBN 978-0-8014-8922-8. ^ “Research of the Baikal”. Irkutsk.org. ngày 18 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2012. ^ George V. Lantzeff and Richard A. Price, 'Eastward to Empire',1973 ^ Открытие Русскими Средней И Восточной Сибири (bằng tiếng Nga). Randewy.ru. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2012. ^ “Irkutsk Hydroelectric Power Station History”. Irkutskenergo. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2010.
Photographies by:
Sergey Pesterev - CC BY-SA 4.0
Артём Полоз - CC BY-SA 3.0
de:Benutzer:Sansculotte - CC BY-SA 2.0 de
Statistics: Position
122
Statistics: Rank
400107

Viết bình luận

Câu hỏi này dùng để kiểm tra xem bạn là người hay là chương trình tự động.

Security
483529167Click/tap this sequence: 9392

Google street view

Where can you sleep near Hồ Baikal ?

Booking.com
487.368 visits in total, 9.187 Points of interest, 404 Đích, 1 visits today.