Context of Bolivia

Bolivia (Phiên âm tiếng việt: Bô-li-vi-a) ( () tiếng Guaraní: Mborivia; tiếng Quechua: Puliwya; Tiếng Aymara: Wuliwya), tên chính thức là Nhà nước Đa dân tộc Bolivia (tiếng Tây Ban Nha: Estado Plurinacional de Bolivia), được đặt theo tên nhà cách mạng Simón Bolívar, là một quốc gia nằm kín trong lục địa ở trung tâm Nam Mỹ. Nước này có biên giới với Brasil ở phía bắc và phía đông, Paraguay và Argentina ở phía nam, Chile và Peru ở phía tây.

More about Bolivia

Basic information
  • Tên bản địa Bolivia
  • Calling code +591
  • Internet domain .bo
  • Mains voltage 230V/50Hz
  • Democracy index 5.08
Population, Area & Driving side
  • Population 11051600
  • Diện tích 1098581
  • Driving side right
Lịch sử
  • Lịch sử Thời kỳ thuộc địa

    Lãnh thổ hiện là Bolivia từng được gọi là "Thượng Peru" hay "Charcas" và nằm dưới quyền cai quản của Phó vương Lima. Chính phủ địa phương thuộc Audiencia de Charcas lỵ sở tại Chuquisaca (La Plata — Sucre hiện đại). Bolivia là nơi xuất xứ quặng mỏ bạc làm giàu có cho Đế chế Tây Ban Nha với nguồn nhân công thổ dân phục dịch đều đặn. Khi triều đình Tây Ban Nha suy yếu trong những cuộc chiến tranh Napoleon, tinh thần độc lập chống chế độ thuộc địa trỗi dậy.

    Nền cộng hoà và bất ổn kinh tế (1809)

    Phong trào độc lập manh nha từ năm 1809, nhưng phải sau 16 năm chiến tranh nền cộng hòa mới khai sinh ngày 6 tháng 8 năm 1825 (xem Chiến tranh giành độc lập Bolivia). Quốc hiệu cho quốc gia mới là "Bolivia" để vinh danh nhà cách mạng Simón Bolívar, người đã có công phá bỏ nền cai trị của triều đình Tây Ban Nha ở Nam Mỹ châu.

    ...Xem thêm
    Lịch sử Thời kỳ thuộc địa

    Lãnh thổ hiện là Bolivia từng được gọi là "Thượng Peru" hay "Charcas" và nằm dưới quyền cai quản của Phó vương Lima. Chính phủ địa phương thuộc Audiencia de Charcas lỵ sở tại Chuquisaca (La Plata — Sucre hiện đại). Bolivia là nơi xuất xứ quặng mỏ bạc làm giàu có cho Đế chế Tây Ban Nha với nguồn nhân công thổ dân phục dịch đều đặn. Khi triều đình Tây Ban Nha suy yếu trong những cuộc chiến tranh Napoleon, tinh thần độc lập chống chế độ thuộc địa trỗi dậy.

    Nền cộng hoà và bất ổn kinh tế (1809)

    Phong trào độc lập manh nha từ năm 1809, nhưng phải sau 16 năm chiến tranh nền cộng hòa mới khai sinh ngày 6 tháng 8 năm 1825 (xem Chiến tranh giành độc lập Bolivia). Quốc hiệu cho quốc gia mới là "Bolivia" để vinh danh nhà cách mạng Simón Bolívar, người đã có công phá bỏ nền cai trị của triều đình Tây Ban Nha ở Nam Mỹ châu.

    Năm 1836, Bolivia do Thống chế Andres de Santa Cruz lãnh đạo xua quân xâm lăng Peru hầu đưa Luis Orbegoso lên làm tổng thống. Orbegoso trước đó đã làm tổng thống Peru nhưng bị phe đối lập truất phế. Qua năm sau 1837 Peru chính thức nhập với Bolivia làm một nước thống nhất với tên là Confederación Perú-Boliviana. Santa Cruz thăng lên làm Giám quốc Tối cao (Supremo Protector de la Confederación). Các nước Anh và Pháp đều công nhận hiệp quốc mới nhưng lân bang là Chile không nhìn nhận chính thể của Santa Cruz và đem quân tấn công vượt biên giới. Chile tuyên chiến ngày 28 tháng 12 năm 1836. Đồng minh của Chile là Argentina theo sau, khai chiến ngày 9 tháng 5 năm 1837. Santa Cruz tự cầm quân đánh lui được cả hai. Argentina và Chile đều thua. Sau trận Paucarpata gần Arequipa, Chile phải ký Hòa ước Paucarpata trong đó có những điều khoản như

    Quân Chile triệt thoái khỏi lãnh thổ Peru-Bolivia Chile hoàn lại các chiến lợi phẩm như tàu thuyền bắt được trong cuộc chiến tái lập mậu dịch giữa hai bên

    Ngược lại Hiệp quốc Peru-Bolivia sẽ hoàn trả khoản nợ cũ của Peru cho Chile.

    Tình hình tưởng như xong nhưng công luân ở Chile lấy làm bất bình đòi xé hiệp ước. Chile lại lâm chiến kéo quân sang đánh Peru-Bolivia lần nữa. Trong trận Yungay Santa Cruz đại bại, phải trốn sang Ecuador năm 1939. Liên minh Peru-Bolivia cũng tan vỡ. Peru và Boliva trở lại thành hai nước độc lập.

    Bên Peru thì Tướng Gamarra lên làm tổng thống có tham vọng dựng lại thể chế cũ gom hai nước Peru và Bolivia về làm một nên mở cuộc xâm lăng Bolivia. trong trận Ingaví ngày 20 tháng 11 năm 1841, Gamarra tử trận. Quân Peru thua to còn quân Bolivia dưới sự chỉ huy của tướng José Ballivián lại mở cuộc phản công chiếm được hải cảng Arica buộc Peru phải cầu hòa. Hai bên ký kết hòa ước năm 1842, chính thức đình chiến.

    Vì một giai đoạn bất ổn chính trị và kinh tế đầu thế kỷ mười chín, sự yếu kém của Bolivia đã được thể hiện trong cuộc Chiến tranh (1879–83), trong đó họ mất lối ra biển, và các mỏ nitrat giàu có, cùng cảng Antofagasta, cho Chile. Từ khi độc lập, Bolivia đã mất một nửa lãnh thổ cho các quốc gia láng giềng vì những cuộc chiến. Bolivia cũng mất Bang Acre (được đặt tên như vậy vì đây là nơi sản xuất cao su) khi Brazil thuyết phục bang này ly khai khỏi Bolivia năm 1903 (xem Hiệp ước Petrópolis).

    Sự tăng giá bạc trên thế giới đã mang lại cho Bolivia một sự ổn định chính trị và thịnh vượng đáng kể trong những năm 1800. Đầu thế kỷ mười chín, thiếc đã thay thế bạc trở thành nguồn tài nguyên mang lại sự thịnh vượng cho nước này. Các chính sách tự do tư bản và sự chuyển tiếp chính phủ với quyền quản lý kinh tế, chính trị trong tay tầng lớp ưu tú tiếp tục kéo dài trong ba mươi năm đầu thế kỷ hai mươi.

    Đời sống của người dân bản xứ, chiếm đa phần dân cư, vẫn còn tệ hại. Họ buộc phải làm việc dưới những điều kiện cổ lỗ tại các khu mỏ rộng lớn hầu như vẫn trong tình trạng phong kiến, họ bị cấm tiếp cận giáo dục, cơ hội kinh tế, hay tham gia vào hoạt động chính trị. Sự thất bại của Bolivia trong Chiến tranh Chaco (1932–35) với Paraguay đã đánh dấu một bước ngoặt[1][2][3].

    Sự nổi lên của Phong trào Cách mạng Quốc gia (1951)

    Phong trào Cách mạng Quốc gia (MNR) đã nổi lên với tư cách một đảng được ủng hộ rộng khắp đất nước, MNR đã lãnh đạo thành công cuộc cách mạng năm 1952. Ở thời Tổng thống Víctor Paz Estenssoro, Phong trào Cách mạng Quốc gia, dưới sức ép mạnh mẽ của công luận, đã đưa quyền Phổ thông đầu phiếu vào cương lĩnh chính trị của ông, và tiến hành một chiến dịch cải cách ruộng đất sâu rộng, thúc đẩy giáo dục nông thôn và quốc hữu hóa những mỏ thiếc lớn nhất của quốc gia.

    Hai mươi năm cầm quyền với tình trạng hỗn loạn khiến MNR bị chia rẽ. Năm 1964, một hội đồng quân sự đã lật đổ Tổng thống Paz Estenssoro khi ông này bắt đầu nhiệm kỳ thứ ba của mình. Cái chết năm 1969 của Tổng thống René Barrientos Ortuño, một cựu thành viên của hội đồng quân sự và được bầu làm Tổng thống năm 1966, đã dẫn tới sự tiếp nối của một loạt chính phủ yếu kém. Nhận thấy tình hình mất trật tự công cộng và sự nổi lên của Hội đồng Nhân dân, quân đội, MNR và các tổ chức khác đã đưa Đại tá (sau này là tướng) Hugo Banzer Suárez lên làm tổng thống năm 1971. Banzer cầm quyền với sự ủng hộ của MNR từ năm 1971 tới năm 1974. Sau đó, không thể kiên nhẫn với tình trạng chia rẽ trong liên minh, ông đã thay thế các quan chức dân sự bằng những thành viên trong các lực lượng vũ trang và đình chỉ các hoạt động chính trị. Nền kinh tế đã có bước tăng trưởng ấn tượng trong hầu hết thời kỳ cầm quyền của Banzer, nhưng những vụ vi phạm nhân quyền và cuối cùng là những cuộc khủng hoảng thuế khóa khiến sự ủng hộ ông suy giảm. Ông buộc phải tổ chức bầu cử năm 1978, và Bolivia một lần nữa lại rơi vào thời kỳ bất ổn chính trị.

    Các chính phủ quân sự: García Meza và Siles Zuazo (1978)

    Những cuộc bầu cử năm 1979 và 1981 không có kết quả cuối cùng và bị ảnh hưởng bởi những mánh khóe gian lận. Các cuộc đảo chính, phản đảo chính và các chính phủ lâm thời thay nhau xuất hiện. Năm 1980, Tướng Luis García Meza Tejada đã tiến hành một cuộc đảo chính vũ lực và không khoan nhượng không được lòng dân. Ông tìm cách lấy lòng họ bằng cách hứa hẹn chỉ nắm quyền lực trong vòng một năm. (Cuối năm, ông tiến hành một chiến dịch tuyên truyền trên TV để tự nhận mình đang được lòng dân, và tuyên bố: "Bueno, me quedo," hay, "Được rồi; Tôi sẽ ở lại [chức vụ]." Ông đã bị hạ bệ chỉ một thời gian ngắn sau đó.) Chính phủ của ông nổi tiếng về thành tích vi phạm nhân quyền, buôn lậu ma tuý, và quản lý kinh tế kém; trong thời tổng thống của ông tình hình lạm phát bắt đầu trở nên tồi tệ và sẽ gây ảnh hưởng nặng nề tới nền kinh tế Bolivia sau đó. Sau khi bị kết án vắng mặt vì các tội ác gồm cả giết người, García Meza đã bị dẫn độ từ Brazil và bắt đầu thụ án tù 30 năm năm 1995.

    Sau một cuộc nổi dậy quân sự buộc García Meza ra đi năm 1981, ba chính phủ quân sự khác tiếp nối trong vòng mười bốn tháng phải đối đầu với nhiều vấn đề ngày càng gay gắt tại Bolivia. Tình trạng bất ổn buộc quân đội phải triệu tập Nghị viện đã được bầu năm 1980 và cho phép họ lựa chọn một lãnh đạo hành pháp mới. Tháng 10 năm 1982, hai mươi hai năm sau khi chấm dứt nhiệm kỳ đầu tiên của mình (1956-60), Hernán Siles Zuazo một lần nữa được bầu làm Tổng thống.

    Sánchez de Lozada và Banzer: Tự do hoá kinh tế (1993-2001)

    Sánchez de Lozada theo đổi một chương trình cải cách kinh tế xã hội đầy tham vọng. Thay đổi quyết liệt nhất do chính phủ Sánchez de Lozada đề xướng là chương trình "tư bản hoá", theo đó các nhà đầu tư, chủ yếu là từ nước ngoài, được quyền sở hữu và điều khiển 50% doanh nghiệp công cộng như tập đoàn dầu mỏ quốc gia, hệ thống viễn thông, các công ty hàng không, đường sắt, và các cơ sở điện lực để đổi lấy nguồn vốn đầu tư của họ. Những cuộc cải cách và việc cơ cấu lại nền kinh tế bị một số thành phần trong xã hội phản đối mạnh mẽ, họ xúi giục các cuộc phản kháng, một đôi khi là phản kháng bạo lực, đặc biệt tại La Paz và vùng trồng cây coca Chapare, từ năm 1994 đến năm 1996. Chính phủ Sánchez de Lozada theo đuổi chính sách cung cấp bồi thường tiền mặt cho những người tự nguyện phá bỏ cây thuốc phiện trồng bất hợp pháp tại vùng Chapare. Chính sách này không khiến lượng sản xuất coca sút giảm nhiều, và vào giữa thập niên 1990 Bolivia chiếm một phần ba lượng canh tác coca để chế biến thành cocaine của thế giới.

    Trong thời gian này, tổ chức lao động của Bolivia, Central Obrera Boliviana (COB), ngày càng cho thấy sự bất lực trong việc đối đầu hiệu quả với thách thức từ chính sách của chính phủ. Một cuộc đình công của các giáo viên xảy ra năm 1995 và thất bại bởi COB không thể tổ chức sự ủng hộ từ phía các thành viên của mình, gồm cả các công nhân nhà máy và công nhân xây dựng. Nhà nước cũng sử dụng thiết quân luật làm vũ khí hạn chế tối đa ảnh hưởng của cuộc đình công này. Các giáo viên nằm dưới sự lãnh đạo của những người Trotskyist, và được coi là thành phần mang tính chiến đấu cao nhất trong COB. Thất bại của họ là cú đánh mạnh vào COB. Danh tiếng của COB cũng sụt giảm vì những vụ scandal tham nhũng và tranh giành nội bộ trong năm 1996.

    Trong cuộc bầu cử năm 1997, Tướng Hugo Banzer, lãnh đạo phe Quốc gia Hành động Dân chủ (DNA), và cũng là nhà cựu độc tài giai đoạn (1971-1978), thắng 22% số phiếu bầu, trong khi ứng cử viên của MNR chiếm 18%. Tướng Banzer thành lập một liên minh với các đảng DNA, MIR, UCS, và CONDEPA để chiếm đa số ghế trong Nghị viện Bolivia. Nghị viện bầu ông làm tổng thống và ông ta tuyên thệ nhậm chức ngày 6 tháng 8 năm 1997. Trong chiến dịch tranh cử, Tướng Banzer đã hứa hẹn ngừng cuộc tư nhân hóa công ty dầu khí nhà nước, YPFB. Dù với vị thế yếu ớt trong cuộc đối mặt với các tập đoàn quốc tế, hành động này của Bolivia dường như không thể xảy ra.

    Chính phủ Banzer về cơ bản vẫn tiếp tục các chính sách tự do hóa thị trường và tư nhân hóa của chính phủ tiền nhiệm, và đã đạt được mức độ tăng trưởng kinh tế khá từ giữa thập niên 1990 cho tới ba năm đầu cầm quyền. Sau đó, những yếu tố vùng, quốc tế và trong nước đã góp phần làm kinh tế sút giảm. Các cuộc khủng hoảng tài chính tại Argentina và Brazil, giá xuất khẩu hàng hóa trên thế giới giảm sút, và lượng nhân công làm việc trong khu vực trồng cấy bất hợp pháp cây coca cũng giảm khiến nền kinh tế Bolivia suy thoái. Trong lĩnh vực công cộng, một lượng lớn đầu tư cũng mất mát do tình trạng tham nhũng. Các yếu tố đó khiến những cuộc phản kháng xã hội ở nửa sau nhiệm kỳ chính phủ Banzer không ngừng gia tăng.

    Cuối nhiệm kỳ của mình, Tổng thống Banzer đưa ra chính sách sử dụng các đơn vị cảnh sát đặc biệt để trừ tiệt tình trạng trồng bất hợp pháp coca tại vùng Chapare. Chính sách này đã thành công trong việc làm sút giảm đột ngột và mạnh mẽ kéo dài bốn năm trong sản lượng trồng cấy coca tại Bolivia, tới mức nước này không còn là một nhà cung cấp cây coca để chiết xuất heroine lớn nữa. Những người thất nghiệp trong ngành trồng cấy đổ vào thành phố, đặc biệt tại El Alto, khu ổ chuột cạnh La Paz. Đảng MIR của Jaime Paz Zamora tiếp tục hợp tác với liên minh trong suốt thời gian cầm quyền của chính phủ Banzer, ủng hộ chính sách này (được gọi là Kế hoạch Phẩm giá).

    Ngày 6 tháng 8 năm 2001, Banzer từ chức sau khi được chẩn đoán ung thư. Ông chết chưa đầy một năm sau đó. Vị phó tổng thống của Banzer, người từng được đào tạo tại Mỹ, Jorge Fernando Quiroga Ramírez, lên làm tổng thống nốt năm đó.

    Cuộc bầu cử năm 2002

    Hiến pháp Bolivia đã cấm Quiroga chạy đua vào các chức vụ nhà nước năm 2002.

    Trong cuộc bầu cử quốc gia tháng 6 năm 2002, cựu Tổng thống Gonzalo Sánchez de Lozada (MNR) về đầu với 22.5% số phiếu bầu, tiếp sau là người ủng hộ việc trồng cây coca và là lãnh đạo của những người nông dân bản xứ Evo Morales (Phong trào hướng tới Chủ nghĩa xã hội, MAS) với 20.9%. Morales chiến thắng ứng cử viên theo chủ nghĩa dân tuý Manfred Reyes Villa thuộc Lực lượng Cộng hòa Mới (NFR) với chỉ 700 phiếu bầu trên toàn quốc, kiếm được một vị trí trong cuộc chạy đua nghị viện với Sánchez de Lozada ngày 4 tháng 8 năm 2002.

    Một thỏa thuận vào tháng 7 giữa MNR và đảng MIR ở vị trí thứ tư, một lần nữa nằm dưới sự lãnh đạo của cựu tổng thống Paz Zamora, rõ ràng đã đảm bảo vị trí của Sánchez de Lozada trong cuộc tranh cử nghị viện, và vào ngày 6 tháng 8 ông tuyên thệ nhậm chức lần hai. Cương lĩnh của MNR nhấn mạnh ba mục tiêu: phục hồi kinh tế (và tạo việc làm), chống tham nhũng, phát triển xã hội.

    Cuộc Khủng hoảng xã hội hiện tại và việc quốc hữu hoá các nguồn tài nguyên hydrocarbon (2000-2005) Tổng thống người thổ dân châu Mỹ: Evo Morales  Trung tâm La Paz

    Bolivia tổ chức tổng tuyển cử ngày 18 tháng 12 năm 2005. Hai ứng cử viên chính là Juan Evo Morales Ayma thuộc đảng Phong trào hướng tới Chủ nghĩa Xã hội (MAS), và Jorge Quiroga, lãnh đạo Đảng Quyền lực Dân chủ và Xã hội (PODEMOS) và cựu lãnh đạo đảng Acción Democrática Nacionalista (DNA).

    Morales thắng cử với 53.74% số phiếu, chiếm tỷ lệ cao hiếm thấy trong lịch sử Bolivia. Ông tuyên thệ nhậm chức ngày 22 tháng 1 năm 2006 với nhiệm kỳ năm năm. Trước khi ông chính thức nhậm chức tại thủ đô La Paz, ông cho tiến hành trước đám đông hàng nghìn người Aymara và đại diện các phong trào cánh tả từ khắp châu Mỹ Latinh nghi thức cổ truyền cáo yết trời đất của người Aymara ở di chỉ Tiwanaku. Dù chỉ mang tính cách tượng trưng, Morales nhấn mạnh vai trò ông đại diện không những riêng của thổ dân thuộc sắc tộc Aymara, mà cả các sắc tộc nói tiếng Quechua. Đó là lần đầu tiên kể từ thế kỷ 16 khi người Tây Ban Nha chinh phục Nam Mỹ đến nay, sau hơn 500 năm bị tầng lớp hậu duệ người Âu châu cai trị, một người thổ dân bản địa mới nắm được địa vị quyền thế số một. Ông cho mình là người sang trang lịch sử mở đầu một kỷ nguyên mới cho Bolivia.

    Morales với cương vị tổng thống khi chấp chính chọn chính sách đối lập với chiến dịch bài trừ ma túy của Hoa Kỳ. Trong khi Hoa Kỳ triển khai "Plan Dignidad" để loại trừ việc trồng cây coca và tiêu diệt nguồn sản xuất heroin, Morales coi cây coca là sinh kế của nông dân nghèo và bác bỏ những biện pháp ngăn cấm của Hoa Kỳ. Morales chủ trương duy trì một thị trường hợp pháp cho lá coca và khuyến khích xuất khẩu những sản phẩm coca hợp pháp.

    Ngày 1 tháng 5 năm 2006, Morales thông báo kế hoạch thu hồi các doanh thương quặng mỏ hydrocarbon của Bolivia. Trên giấy tờ chính phủ tuyên bố rằng quốc hữu hóa không phải là một cuộc tước đoạt nhưng quân đội được điều động chiếm cứ 56 cơ sở sản xuất khí gas và hai nhà máy lọc dầu (của Petrobras). Hai xưởng này chiếm 90% năng suất lọc dầu của Bolivia. Morales lại ra thông báo ra hạn 180 ngày buộc mọi công ty năng lượng nước ngoài phải chuyển nhượng cho chính phủ Bolivia 82% quyền sở hữu và lợi nhuận. Mọi công ty đều tuân thủ dù miễn cưỡng. Với lượng hydrocarbon lớn, Bolivia đã thu gọn nguồn sản xuất, rồi bán lại qua hệ thống ống dẫn của Petrobras cho Brasil, một nước vốn thiếu nhiên liệu. Doanh thu quốc gia của Bolivia tăng mạnh vì sản lượng khai thác tăng gấp đôi. Riêng lợi nhuận cho công quỹ từ hydrocarbon tăng gấp bảy lần: từ $731 triệu USD lên $4,95 tỷ USD. Nạn đói nghèo và thất nghiệp giảm mạnh.[4]

    Về mặt chính trị Morales xúc tiến việc tu chính hiến pháp, lập ra hội đồng tu hiến ngày 6 tháng 8 năm 2006 để khắc phục địa vị pháp lý thua thiệt của thổ dân.[5] Việc bàn thảo gặp bế tắc vì không đạt được được 2/3 số phiếu tối thiểu để tu chính. Morales và đồng đảng bèn đơn phương đổi quy thức, cho là chỉ cần 50% + 1 là đủ; phe đối lập liền kêu gọi dân chúng xuống đường phản đối. Nhiều cuộc biểu tình diễn ra trên khắp đất nước vào cuối năm 2006, có khi dẫn đến bạo động. Miền đông Bolivia nơi có nhiều quặng mỏ hydrocarbon thì nổ ra phong trào ly khai. Morales đành nhượng bộ, đồng ý mở cuộc trưng cầu dân ý để tu hiến chứ không dùng cơ chế quốc hội nữa.

    Năm 2008 Morales đắc thế trong cuộc trưng cầu dân ý, thông qua một hiến pháp mới rồi lại tái đắc cử tổng thống năm 2009. Morales đẩy mạnh chính sách thiên tả, gia nhập BancoSur và Cộng đồng các Quốc gia Mỹ Latin và Caribe (Community of Latin American and Caribbean States).

    Trưng cầu dân ý và ý định Tu hiến

    Ngày 21 tháng 2 năm 2016, Morales mở cuộc trưng cầu dân ý lần nữa chủ trương thay đổi hiến pháp để bỏ điều khoản hạn chế tổng thống chỉ được làm ba nhiệm kỳ mà thôi để mở đường cho chính mình ra tranh ứng cử kỳ bốn. Kết quả là 51% phiếu chống việc tu chính hiến pháp. Morales thất bại.[6] Tuy nhiên Morales đâm đơn lên Tòa án Hiến pháp và được chấp thuận năm 2017.[7]

    Từ chức

    Tháng 10 năm 2019 Morales ra tranh cử lần thứ tư nhưng vì chỉ đạt 45% (thay vì ≥50%) nên phải qua vòng nhì với đối thủ là cựu tổng thống Carlos Mesa. Mesa được 38% số phiếu. Morales bị cáo buộc là tham nhũng và tham quyền cố vị.[8] Morales tuyên bố thắng vòng nhì nhưng bản báo cáo của quan sát viên quốc tế thuộc Tổ chức các Quốc gia châu Mỹ thì ghi nhận là có nhiều sự "bất thường", bất tín nhiệm cuộc tuyển cử. Dân chúng rầm rộ xuống đường, phe thì ủng hộ, phe thì phản đối Morales. Chính phủ điều quân đội ra dẹp nhưng các tướng lãnh ra thông cáo sẽ không đàn áp đồng bào. Các cơ quan cảnh sát lại tham gia các cuộc biểu tình chống lại chính phủ. Ngày 10 tháng 11 New York Times loan tin rằng chỉ huy quân lực Bolivia là Tướng Williams Kaliman cũng khuyên Morales "nên từ chức để vãn hồi hòa bình và ổn định và vì lợi ích của đất nước chúng ta." Mất chỗ dựa, Evo Morales tuyên bố từ chức và đáp máy bay bỏ nước lưu vong sang México tối Thứ Hai 11 Tháng 11, 2019, chấm dứt 14 năm chấp chính. Chính phủ bỏ ngỏ vì phó tổng thống, chủ tịch Thượng viện, chủ tịch Hạ viện theo tuần tự đúng ra sẽ kế nhiệm nhưng tất cả đều từ nhiệm.[9] Morales, cùng với các nước thiên tả México, Cuba, Nicaragua và Venezuela lên án sự việc, cho đó cuộc đảo chính quân sự.[10][11][12][13]

    Dầu tình hình chưa yên Phó chủ tịch Thượng viện Jeanine Áñez đã lên tiếng kêu gọi các đại diện dân cử nhóm họp để ổn định chính phủ và xúc tiến cuộc bầu cử mới.[14] Bà được Tòa án Hiến pháp công nhận kiêm nhiệm chức vụ tổng thống Bolivia.[9]

    Tổng tuyển cử Tháng 10, 2020

    Chưa đầy một năm thì Bolivia tổ chức tổng tuyển cử. Đảng Phong trào hướng tới Xã hội Chủ nghĩa của Morales đảo ngược thế cờ và thắng to dưới sự lãnh đạo của Luis Arce, người trước là tổng trưởng Bộ Kinh tế thời Morales. Đầu năm 2021 Arce ra lệnh bắt giam Jeanine Áñez vì tội tham gia đảo chánh. Áñez kêu gọi quốc tế can thiệp vì hành động của Arce là trả thù chính trị chứ không phải mục đích hình sự chính đáng.[15]

    ^ Harold Osborne (1954). Bolivia: A Land Divided. London: Royal Institute of International Affairs. ^ History World (2004). “History of Bolivia”. National Grid for Learning. ^ Juan Forero (2006). “History Helps Explain Bolivia's New Boldness”. New York Times. ^ "New Report..."”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2019. ^ [1] ^ “Bolivian President Evo Morales 'loses' fourth term bid”. BBC. 22 tháng 2 năm 2016. ^ "Bolivia's Morales begins bid..." ^ "Bolivia's Evo Morales faces second round..." ^ a b "Bolivia crisis" ^ “Bolivian President Evo Morales resigns”. BBC News. ^ “Bolivian president Evo Morales resigns after election result dispute”. The Guardian. ngày 10 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2019. ^ “Nicaraguan government denounces "coup" in Bolivia: statement”. Reuters (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019. ^ “Mexico says Bolivia suffered coup due to military pressure on Morales”. Reuters. Reuters. ngày 11 tháng 11 năm 2019. ^ "Evo Morales arives..." ^ "Bolivia ex-president Anez behind bars..."
    Read less

Phrasebook

Xin chào
Hola
Thế giới
Mundo
Chào thế giới
Hola Mundo
Cảm ơn bạn
Gracias
Tạm biệt
Adiós
Đúng
Không
No
Bạn khỏe không?
¿Cómo estás?
Tốt, cảm ơn bạn
Bien, gracias
cái này giá bao nhiêu?
¿Cuánto cuesta?
Số không
Cero
Một
Una

Where can you sleep near Bolivia ?

Booking.com
489.090 visits in total, 9.195 Points of interest, 404 Đích, 62 visits today.