Context of Na Uy

Na Uy (Bokmål: Norge; Nynorsk: Noreg), tên chính thức là Vương quốc Na Uy, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây và cực bắc của Bán đảo Scandinavia; bao gồm đảo Jan Mayen và quần đảo Svalbard là 2 lãnh thổ nằm rất xa về phía Bắc Cực; bao gồm lãnh thổ phụ thuộc: đảo Bouvet nằm ở khu vực Subantartic. Na Uy cũng tuyên bố chủ quyền lãnh thổ với hai hòn đảo Peter I và Queen Maud Land tại châu Nam Cực.

Na Uy có tổng diện tích là 385.207 kilômét vuông (148.729 dặm vuông Anh) và dân số là 5,385,300 (2020). Đất nước này có chung biên giới phía đông với Thụy Điển (có chiều dài là 1.619 km hoặc 1.006  mi). Na Uy giáp Phần Lan và Nga ở phía đông bắc. Eo biển Skagerrak ở phía nam nối Na Uy với Đan Mạch. Na Uy có đường bờ biển dài, hướng ra Bắc Đại Tây Dương và biển Barents. Chính đại dương khiến Na Uy có khí hậu vùng đất thấp êm dịu, bớt lạnh hơn nhiều so với các quốc gia ở vùng vĩ độ bắc tương tự. Ngay cả vào những đê...Xem thêm

Na Uy (Bokmål: Norge; Nynorsk: Noreg), tên chính thức là Vương quốc Na Uy, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây và cực bắc của Bán đảo Scandinavia; bao gồm đảo Jan Mayen và quần đảo Svalbard là 2 lãnh thổ nằm rất xa về phía Bắc Cực; bao gồm lãnh thổ phụ thuộc: đảo Bouvet nằm ở khu vực Subantartic. Na Uy cũng tuyên bố chủ quyền lãnh thổ với hai hòn đảo Peter I và Queen Maud Land tại châu Nam Cực.

Na Uy có tổng diện tích là 385.207 kilômét vuông (148.729 dặm vuông Anh) và dân số là 5,385,300 (2020). Đất nước này có chung biên giới phía đông với Thụy Điển (có chiều dài là 1.619 km hoặc 1.006  mi). Na Uy giáp Phần Lan và Nga ở phía đông bắc. Eo biển Skagerrak ở phía nam nối Na Uy với Đan Mạch. Na Uy có đường bờ biển dài, hướng ra Bắc Đại Tây Dương và biển Barents. Chính đại dương khiến Na Uy có khí hậu vùng đất thấp êm dịu, bớt lạnh hơn nhiều so với các quốc gia ở vùng vĩ độ bắc tương tự. Ngay cả vào những đêm vùng cực, nhiệt độ thông thường vẫn trên mức đóng băng. Đại dương cũng mang lại lượng mưa và lượng tuyết rơi lớn ở nhiều vùng.

Quốc vương Na Uy hiện tại là Harald V thuộc Vương tộc Glücksburg. Thủ tướng đương nhiệm là ông Jonas Gahr Støre (Ap) (từ năm 2021). Na Uy là một quốc gia độc lập, có bộ máy nhà nước đơn nhất chế độ quân chủ lập hiến; Na Uy phân chia quyền lực quốc gia cho Quốc hội, Hội đồng nội các và Tòa án tối cao theo đúng Hiến pháp năm 1814. Vương quốc Na Uy được thành lập vào năm 872 với sự sáp nhập của hàng loạt các tiểu quốc và tồn tại như thế trong suốt hơn 1 100 năm. Từ năm 1537 đến 1814, Na Uy là một phần của Vương quốc Đan Mạch-Na Uy; từ năm 1814 đến 1905 thì nằm trong Vương quốc Liên hiệp Thụy Điển và Na Uy. Na Uy là nước trung lập trong Thế chiến thứ nhất, đến tháng 4 năm 1940 thì bị xâm chiếm bởi Đức Quốc xã và đến tận cuối Thế chiến thứ hai thì Na Uy mới giành được độc lập.

Na Uy phân chia hệ thống chính trị và quản lý làm 2 cấp độ: Hạt và Khu tự quản. Nhóm người thiểu số Sámi tự trị trong vùng đất của họ theo Đạo luật Finnmark và Quốc hội Sámi. Na Uy duy trì mối quan hệ chặt chẽ với cả Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ. Na Uy là thành viên sáng lập của Liên hợp quốc, NATO, Hiệp hội thương mại tự do châu Âu, Hội đồng châu Âu, Hiệp ước châu Nam Cực và Hội đồng Bắc Âu; là thành viên của Khu vực kinh tế châu Âu, WTO, OECD cũng như Khu vực Schengen. Tiếng Na Uy có rất nhiều điểm tương đồng với tiếng Đan Mạch và Thụy Điển.

Na Uy đi theo mô hình phúc lợi Bắc Âu với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân và an sinh xã hội toàn diện, bắt nguồn từ lý tưởng của Chủ nghĩa quân bình. Na Uy nắm giữ vị trí quan trọng trong các lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, với lượng dự trữ tài nguyên dồi dào gồm có dầu mỏ, khí tự nhiên, khoáng sản, gỗ, thủy sản và nước ngọt. Ngành dầu khí chiếm đến khoảng 1/4 tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nếu tính trên bình quân đầu người, Na Uy là chính là nước sản xuất dầu mỏ và khí tự nhiên lớn nhất thế giới bên ngoài Trung Đông.

Mức thu nhập bình quân đầu người của Na Uy cao thứ tư thế giới theo danh sách của tổ chức Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ thế giới IMF. Còn theo danh sách của CIA (ước tính 2015) Na Uy xếp thứ 11. Quỹ đầu tư quốc gia của Na Uy cũng là lớn nhất thế giới, với giá trị 1 nghìn tỷ USD; chỉ số Phát triển Con người HDI cũng xếp số 1 kể từ năm 2009; xếp thứ nhất trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2017 và hiện tại đang đứng đầu về Chỉ số Cuộc sống tốt đẹp hơn của OECD, chỉ số Liêm chính công, Chỉ số Dân chủ. Na Uy cũng là một trong những nước có tỷ lệ tội phạm thấp nhất trên thế giới.

More about Na Uy

Basic information
  • Currency Krone Na Uy
  • Tên bản địa Norge
  • Calling code +47
  • Internet domain .no
  • Mains voltage 230V/50Hz
  • Democracy index 9.81
Population, Area & Driving side
  • Population 5550203
  • Diện tích 385207
  • Driving side right
Lịch sử
  • Lịch sử  Tranh khắc đá tại Alta

    Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con người đã có mặt tại Na Uy ngay từ Thiên niên kỷ thứ 10 trước Công Nguyên (12.000 năm trước). Nghiên cứu khảo cổ cho thấy họ hoặc tới từ những vùng phía nam (bắc Đức)[cần dẫn nguồn], hay đông bắc (bắc Phần Lan hay Nga)[cần dẫn nguồn]. Từ đó họ định cư dọc bờ biển.

    Ở thế kỷ thứ IX, dường như Na Uy gồm một số vương quốc nhỏ. Theo truyền thống, Harald Fairhair đã tập hợp các tiểu quốc nhỏ thành một vào năm 872 của Công Nguyên sau Trận Hafrsfjord. Ông trở thành vị vua đầu tiên của nước Na Uy thống nhất.

    Thời kỳ Viking (thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ XI) là một trong những giai đoạn thống nhất và mở rộng. Người Na Uy đã lập các khu định cư tại Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và nhiều phần của Anh Quốc và Ireland và tìm cách định cư tại L'Anse aux Meadows ở Newfoundland, Canada ("Vinland" của sử thi của Erik Thorvaldsson). Người Na Uy đã thành lập các thành phố Limerick, Dublin, và Waterford của Ireland[1] và thành lập các cộng đồng thương mại gần các khu định cư Celtic của Cork và Dublin[cần dẫn nguồn] sau này trở thành hai thành phố quan trọng nhất của Ireland. Sự lan tràn của Thiên chúa giáo ở Na Uy trong giai đoạn này phần lớn nhờ các vị vua truyền giáo Olav Tryggvasson (995–1000) và St. Olav (1015–1028), dù Haakon the Good là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên của Na Uy. Các truyền thống Norse đã dần thay thế trong các thế kỷ thứ IX và thứ X.

    ...Xem thêm
    Lịch sử  Tranh khắc đá tại Alta

    Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con người đã có mặt tại Na Uy ngay từ Thiên niên kỷ thứ 10 trước Công Nguyên (12.000 năm trước). Nghiên cứu khảo cổ cho thấy họ hoặc tới từ những vùng phía nam (bắc Đức)[cần dẫn nguồn], hay đông bắc (bắc Phần Lan hay Nga)[cần dẫn nguồn]. Từ đó họ định cư dọc bờ biển.

    Ở thế kỷ thứ IX, dường như Na Uy gồm một số vương quốc nhỏ. Theo truyền thống, Harald Fairhair đã tập hợp các tiểu quốc nhỏ thành một vào năm 872 của Công Nguyên sau Trận Hafrsfjord. Ông trở thành vị vua đầu tiên của nước Na Uy thống nhất.

    Thời kỳ Viking (thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ XI) là một trong những giai đoạn thống nhất và mở rộng. Người Na Uy đã lập các khu định cư tại Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và nhiều phần của Anh Quốc và Ireland và tìm cách định cư tại L'Anse aux Meadows ở Newfoundland, Canada ("Vinland" của sử thi của Erik Thorvaldsson). Người Na Uy đã thành lập các thành phố Limerick, Dublin, và Waterford của Ireland[1] và thành lập các cộng đồng thương mại gần các khu định cư Celtic của Cork và Dublin[cần dẫn nguồn] sau này trở thành hai thành phố quan trọng nhất của Ireland. Sự lan tràn của Thiên chúa giáo ở Na Uy trong giai đoạn này phần lớn nhờ các vị vua truyền giáo Olav Tryggvasson (995–1000) và St. Olav (1015–1028), dù Haakon the Good là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên của Na Uy. Các truyền thống Norse đã dần thay thế trong các thế kỷ thứ IX và thứ X.

    Năm 1349, nạn dịch Tử thần Đen đã giết hại khoảng 40% tới 50% dân số Na Uy,[2] khiến nước này suy sụp cả về xã hội và kinh tế. Trong cuộc suy thoái này, có lẽ Triều đại Fairhair đã kết thúc năm 1387. Bề ngoài có vẻ chính trị hoàng gia ở thời điểm ấy đã dẫn tới nhiều hiệp đoàn cá nhân giữa các quốc gia Bắc Âu, cuối cùng dẫn tới việc ngôi vua Na Uy, Đan Mạch, và Thuỵ Điển rơi vào tay Nữ hoàng Margaret I của Đan Mạch khi nước này gia nhập Liên minh Kalmar với Đan Mạch và Thuỵ Điển. Dù Thuỵ Điển cuối cùng đã rút lui khỏi liên minh năm 1523, Na Uy tiếp tục ở lại với Đan Mạch trong 434 năm cho tới năm 1814. Trong chủ nghĩa lãng mạn quốc gia ở thế kỷ XIX, giai đoạn được một số người gọi là "Đêm trường 400 Năm", bởi tất cả hoàng gia, giới học giả và quyền lực hành chính ở các vương quốc được tập trung tại Copenhagen, Đan Mạch. Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy sụp của Na Uy trong giai đoạn này. Với sự xuất hiện của Đạo Tin Lành năm 1537, Tổng giám mục tại Trondheim bị giải tán, và các nguồn thu của nhà thờ được phân chia cho triều đình ở Copenhagen tại Đan Mạch. Na Uy mất nguồn hành hương ổn định tới thánh tích của St. Olav tại hầm mộ Nidaros, và cùng với đó, là đa phần nguồn liên hệ với đời sống văn hoá và kinh tế với phần còn lại của châu Âu. Ngoài ra, trong thế kỷ XVII Na Uy cũng bị mất một phần diện tích lãnh thổ khi mất các tỉnh Båhuslen, Jemtland, và Herjedalen cho Thuỵ Điển, sau những cuộc chiến tranh giữa Đan Mạch-Na Uy và Thuỵ Điển.

     Hội đồng hiến pháp năm 1814, tranh vẽ của Oscar Wergeland.

    Sau khi Đan Mạch-Na Uy bị Anh Quốc tấn công, họ tham gia vào liên minh với Napoleon, và vào năm 1814 thấy mình đang ở bên thua cuộc trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon và trong tình thế nguy ngập với nạn đói năm 1812. Vị vua Oldenburg của Đan Mạch Na Uy buộc phải nhường Na Uy cho Thuỵ Điển, trong khi các tỉnh cũ của Na Uy là Iceland, Greenland và Quần đảo Faroe vẫn tiếp tục thuộc về triều đình Đan Mạch. Na Uy lợi dụng cơ hội này để tuyên bố độc lập, chấp nhận một hiến pháp dựa trên mô hình hiến pháp Mỹ và Pháp, và bầu vị thái tử người Đan Mạch Christian Fredrik lên làm vua ngày 17 tháng 5 năm 1814. Tuy nhiên, quân đội Thuỵ Điển đã buộc Na Uy phải gia nhập một liên minh cá nhân với Thuỵ Điển, lập ra triều đại Bernadotte nắm quyền cai trị Na Uy. Theo thoả thuận này, Na Uy giữ hiến pháp tự do và các định chế độc lập của mình, ngoại trừ quan hệ đối ngoại. Xem thêm Na Uy năm 1814.

    Giai đoạn này cũng chứng kiến sự nổi lên của phong trào văn hoá Chủ nghĩa quốc gia lãng mạn Na Uy, khi người Na Uy tìm cách định nghĩa và thể hiện một bản sắc quốc gia riêng biệt. Phong trào này liên quan tới mọi nhánh văn hoá, gồm cả văn học (Henrik Wergeland, Bjørnstjerne Bjørnson, Peter Christen Asbjørnsen, Jørgen Moe, Henrik Ibsen), hội họa (Hans Gude, Adolph Tidemand), âm nhạc (Edvard Grieg), và thậm chí trong cả chính sách ngôn ngữ, những nỗ lực nhằm xác định một ngôn ngữ viết bản xứ cho Na Uy đã dẫn tới các hình thức ngôn ngữ viết chính thức hiện nay cho Tiếng Na Uy: Bokmål và Nynorsk.

    Christian Michelsen, một ông trùm ngành tàu bè và là một chính khách, đã làm Thủ tướng Na Uy từ năm 1905 tới năm 1907. Michelsen giữ vai trò quan trọng trong cuộc ly khai hoà bình của Na Uy với Thuỵ Điển ngày 7 tháng 7 năm 1905. Sự bất mãn ngày càng tăng của Na Uy về liên minh với Thuỵ Điển hồi cuối thế kỷ XIX cộng với chủ nghĩa quốc gia đã thúc đẩy nhanh sự tan rã của liên minh. Sau một cuộc trưng cầu dân ý xác định sự ưa chuộng của người dân với chế độ quân chủ hơn một nền cộng hoà, chính phủ Na Uy đã đề xuất trao ngôi báu Na Uy cho Hoàng tử Đan Mạch Carl và Nghị viện đã nhất trí bầu ông. Ông lấy tên Haakon VII, theo các vị vua khi Na Uy độc lập thời Trung Cổ. Năm 1898, tất cả mọi nam giới đều được trao quyền bầu cử, sau đó phụ nữ năm 1913.

    Trong Thế Chiến I, Na Uy là một nước trung lập. Na Uy cũng tìm cách tuyên bố trung lập trong Thế Chiến II, nhưng đã bị các lực lượng Đức xâm lược Na Uy ngày 9 tháng 4 năm 1940. Na Uy không hề chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công bất ngờ như vậy của Đức, nhưng các cuộc kháng cự quân sự vẫn diễn ra trong hai tháng, lâu hơn bất kỳ một quốc gia nào khác bị người Đức xâm lược, ngoại trừ Liên bang Xô viết. Trong Chiến dịch Na Uy, Kriegsmarine mất nhiều tàu chiến kể cả chiếc tuần dương hạm Blücher. Những trận chiến Vinjesvingen và Hegra đã trở thành những cứ điểm kháng cự cuối cùng của người Na Uy ở phía nam nước này vào tháng 5, trong khi các lực lượng vũ trang ở phía bắc tung ra các cuộc tấn công vào các lực lượng Đức trong Các trận đánh Narvik, cho tới khi họ buộc phải đầu hàng ngày 10 tháng 6 sau khi mất sự hỗ trợ của Đồng Minh đi cùng sự thất trận của nước Pháp. Vua Haakon và chính phủ Na Uy tiếp tục cuộc chiến trong hoàn cảnh tị nạn tại Rotherhithe, Luân Đôn. Vào ngày cuộc xâm lược diễn ra, vị đồng lãnh đạo của Đảng Quốc gia-Xã hội nhỏ Nasjonal Samling — Vidkun Quisling — đã tìm cách lên nắm quyền lực, nhưng đã bị quân chiếm đóng Đức gạt ra rìa. Quyền lực thực sự nằm trong tay chính quyền chiếm đóng Đức, Reichskommissar Josef Terboven. Quisling, với tư cách bộ trưởng tổng thống, sau này đã thành lập một chính phủ liên minh dưới sự quản lý của Đức. Các cơ sở tại Na Uy đã chế tạo nước nặng, một nguyên liệu chủ chốt chế tạo vũ khí hạt nhân, và cuối cùng đã bị người Đức bỏ lại sau nhiều nỗ lực phá huỷ cơ sở Vemork của người Na Uy, người Anh và người Mỹ. Trong những năm chiếm đóng của Phát xít, người Na Uy đã xây dựng một phong trào kháng chiến mạnh chống lại các lực lượng chiếm đóng Đức bằng cả chiến tranh vũ trang và bất tuân dân sự. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hơn với Đồng Minh, là vai trò của hải quân thương mại Na Uy. Ở thời điểm xảy ra cuộc xâm lược, Na Uy có hạm đội tàu biển thương mại đứng hàng thứ tư thế giới (cũng như có tốc độ nhanh nhất và hiệu quả nhất). Công ty tàu biển Na Uy Nortraship đã nằm dưới sự điều khiển của Đồng Minh trong suốt cuộc chiến và tham gia vào mọi chiến dịch từ việc sơ tán Dunkirk tới cuộc đổ bộ vào Normandy.

    Sau cuộc chiến, những thành viên đảng Dân chủ Xã hội lên nắm quyền và lãnh đạo quốc gia trong hầu hết thời gian cuộc chiến tranh lạnh. Na Uy đã gia nhập NATO năm 1949, và trở thành một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. Hai cuộc trưng cầu dân ý nhằm gia nhập Liên minh châu Âu (được gọi là Cộng đồng châu Âu năm 1972) đã thất bại với tỷ số mong manh năm 1972 và 1994. Những nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas lớn đã được khám phá trong thập niên 1960, dẫn tới sự bùng nổ kinh tế sau đó.

    ^ RF Foster: "The Oxford History of Ireland", Oxford University Press, 1989 ^ “[The black death in Norway]”. Truy cập 23 tháng 9 năm 2015.
    Read less

Phrasebook

Xin chào
Hello
Thế giới
World
Chào thế giới
Hello world
Cảm ơn bạn
Thank you
Tạm biệt
Goodbye
Đúng
Yes
Không
No
Bạn khỏe không?
How are you?
Tốt, cảm ơn bạn
Fine, thank you
cái này giá bao nhiêu?
How much is it?
Số không
Zero
Một
One

Where can you sleep near Na Uy ?

Booking.com
489.373 visits in total, 9.196 Points of interest, 404 Đích, 11 visits today.