Context of Đảo Ireland

Ireland (phiên âm: "Ai-len", tiếng Anh:  (); tiếng Ireland: Éire [ˈeːɾʲə] (); Ulster-Scots: Airlann [ˈɑːrlən]) là một hòn đảo tại Bắc Đại Tây Dương. Đảo này tách biệt với Đảo Anh ở phía đông qua Eo biển Bắc, Biển Ireland và Eo biển St George. Ireland là đảo lớn thứ nhì trong Quần đảo Anh, lớn thứ ba tại châu Âu và lớn thứ 20 trên thế giới.

Về mặt chính trị, Đảo Ireland được chia tách thành Cộng hoà Ireland (được đặt tên chính thức là Ireland) chiếm 5/6 diện tích đảo, và Bắc Ireland, thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Năm 2011, dân số Ireland đạt khoảng 6,4 triệu, là đảo đông dân thứ nhì tại châu Âu sau Đảo Anh. Trong đó, có gần 4,6 triệu người sống tại Cộng hòa Ireland và hơn...Xem thêm

Ireland (phiên âm: "Ai-len", tiếng Anh:  (); tiếng Ireland: Éire [ˈeːɾʲə] (); Ulster-Scots: Airlann [ˈɑːrlən]) là một hòn đảo tại Bắc Đại Tây Dương. Đảo này tách biệt với Đảo Anh ở phía đông qua Eo biển Bắc, Biển Ireland và Eo biển St George. Ireland là đảo lớn thứ nhì trong Quần đảo Anh, lớn thứ ba tại châu Âu và lớn thứ 20 trên thế giới.

Về mặt chính trị, Đảo Ireland được chia tách thành Cộng hoà Ireland (được đặt tên chính thức là Ireland) chiếm 5/6 diện tích đảo, và Bắc Ireland, thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Năm 2011, dân số Ireland đạt khoảng 6,4 triệu, là đảo đông dân thứ nhì tại châu Âu sau Đảo Anh. Trong đó, có gần 4,6 triệu người sống tại Cộng hòa Ireland và hơn 1,8 triệu người sống tại Bắc Ireland.

Về mặt khu vực địa lý, đảo có các dãy núi tương đối thấp bao quanh một đồng bằng trung tâm, với một số dòng sông mà tàu thuyền có thể đi được kéo dài vào nội địa. Đảo có thảm thực vật tươi tốt do có khí hậu ôn hòa nhưng dễ thay đổi, không chịu sự khắc nghiệt của nhiệt độ. Rừng rậm từng bao phủ đảo cho đến thời kỳ Trung Cổ. Đến năm 2013, 11% diện tích đảo có rừng bao phủ, trong khi mức trung bình của châu Âu là 33%, và hầu hết là các đồn điền trồng cây lá kim không có nguồn gốc bản địa. Có hai mươi sáu loài động vật có vú sống trên cạn có nguồn gốc bản địa Ireland. Khí hậu Ireland chịu ảnh hưởng của Đại Tây Dương và do đó rất ôn hoà, và mùa đông ôn hòa hơn so với một khu vực phía bắc như vậy, mặc dù mùa hè khí hậu mát hơn so với lục địa châu Âu. Lượng mưa và mây che phủ rất nhiều.

Bằng chứng sớm nhất về việc con người hiện diện tại Ireland có niên đại từ 10.500 TCN. Trật tự Ireland Gael xuất hiện từ thế kỷ I. Cư dân đảo cải đạo sang Cơ Đốc giáo từ thế kỷ V trở đi. Sau khi người Norman xâm chiếm đảo vào thế kỷ XII, Anh yêu sách chủ quyền đối với Ireland. Tuy nhiên, quyền cai trị của Anh không bành trướng được đến toàn đảo cho đến cuộc chinh phục dưới thời Triều đại Tudor trong thế kỷ XVI-XVII, cuộc chinh phục này kéo theo những người di cư đến từ Đảo Anh. Trong thập niên 1690, một hệ thống cai trị theo dòng Tin Lành của người Anh được định ra nhằm gây bất lợi cho tín hứu Công giáo La Mã chiếm đa số cùng với những người biệt giáo với Tin Lành, và hệ thống được mở rộng trong thế kỷ XVIII. Theo Đạo luật Liên hiệp năm 1801, Ireland trở thành một bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland. Một cuộc chiến tranh giành độc lập vào đầu thế kỷ XX diễn ra được kế tiếp bằng sự phân chia hòn đảo, thành lập Nhà nước Tự do Ireland, thực thể dần tăng cường chủ quyền trong các thập niên tiếp theo, và Bắc Ireland, vốn duy trì là bộ phận của Vương quốc Anh. Bắc Ireland đã chứng kiến ​​nhiều bất ổn dân sự từ cuối những năm 1960 cho đến những năm 1990. Tình hình dần lắng xuống sau một hiệp định chính trị vào năm 1998. Năm 1973, Cộng hòa Ireland và Vương quốc Anh, bao gồm Bắc Ireland, gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu.

Văn hoá Ireland có ảnh hưởng đáng kể đến các nền văn hoá khác, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học. Cùng với văn hóa phương Tây chủ lưu, văn hoá bản địa mạnh mẽ vẫn hiện diện trên đảo, được thể hiện thông qua các trò chơi Gael, âm nhạc Ireland, và ngôn ngữ Ireland. Văn hoá trên đảo cũng chia sẻ nhiều đặc điểm với văn hoá Anh, trong đó có ngôn ngữ Anh và các môn thể thao như bóng đá, rugby, đua ngựa và golf.

More about Đảo Ireland

Population, Area & Driving side
  • Population 6572728
  • Diện tích 84421
  • Driving side left
Lịch sử
  • Lịch sử Thời tiền sử

    Hầu hết đảo Ireland bị băng bao phủ trong hầu hết thời gian thuộc thời kỳ băng hà cuối cùng, kéo dài cho đến khoảng 9.000 năm trước. Mực nước biển thấp và Ireland cùng với đảo Anh là bộ phận của châu Âu lục địa. Đến năm 12.000 TCN, mực nước biển dâng lên do băng tan khiến Ireland tách khỏi đảo Anh. Đến khoảng năm 5.600 TCN thì đảo Anh cũng tách khỏi châu Âu lục địa.[1] Bằng chứng sớm nhất về việc con người hiện diện tại Ireland có niên đại từ 10.500 TCN.[2] Cho đến gần đây, bằng chứng sớm nhất về loài người tại Ireland cho đến nay là về người thuộc thời kỳ đồ đá giữa, họ đến bằng thuyền từ đảo Anh vào từ năm 8.000 TCN đến năm 7.000 TCN.[3]

    Từ khoảng năm 4.500 TCN, những người định cư thuộc thời kỳ đồ đá mới đến đảo và mang theo các giống cây lương thực có hạt, một văn hóa ngựa (tương tự như tại Scotland cùng thời kỳ) và các tượng đá. Một nền nông nghiệp tiến bộ hơn phát triển tại Céide Fields, được bảo tồn bên dưới lớp than bùn. Một hệ thống cánh đồng rộng lớn, được cho là cổ nhất trên thế giới,[4] gồm các phần nhỏ được tách biệt qua các bức tường xếp đá. Các cánh đồng được canh tác trong vài thế kỷ từ 3.500 TCN đến 3.000 TCN. Lúa mì và lúa mạch là các cây trồng chủ đạo, được đưa đến từ bán đảo Iberia.

    ...Xem thêm
    Lịch sử Thời tiền sử

    Hầu hết đảo Ireland bị băng bao phủ trong hầu hết thời gian thuộc thời kỳ băng hà cuối cùng, kéo dài cho đến khoảng 9.000 năm trước. Mực nước biển thấp và Ireland cùng với đảo Anh là bộ phận của châu Âu lục địa. Đến năm 12.000 TCN, mực nước biển dâng lên do băng tan khiến Ireland tách khỏi đảo Anh. Đến khoảng năm 5.600 TCN thì đảo Anh cũng tách khỏi châu Âu lục địa.[1] Bằng chứng sớm nhất về việc con người hiện diện tại Ireland có niên đại từ 10.500 TCN.[2] Cho đến gần đây, bằng chứng sớm nhất về loài người tại Ireland cho đến nay là về người thuộc thời kỳ đồ đá giữa, họ đến bằng thuyền từ đảo Anh vào từ năm 8.000 TCN đến năm 7.000 TCN.[3]

    Từ khoảng năm 4.500 TCN, những người định cư thuộc thời kỳ đồ đá mới đến đảo và mang theo các giống cây lương thực có hạt, một văn hóa ngựa (tương tự như tại Scotland cùng thời kỳ) và các tượng đá. Một nền nông nghiệp tiến bộ hơn phát triển tại Céide Fields, được bảo tồn bên dưới lớp than bùn. Một hệ thống cánh đồng rộng lớn, được cho là cổ nhất trên thế giới,[4] gồm các phần nhỏ được tách biệt qua các bức tường xếp đá. Các cánh đồng được canh tác trong vài thế kỷ từ 3.500 TCN đến 3.000 TCN. Lúa mì và lúa mạch là các cây trồng chủ đạo, được đưa đến từ bán đảo Iberia.

    Thời kỳ đồ đồng bắt đầu vào khoảng năm 2.500 TCN, lúc này kỹ thuật thay đổi sinh hoạt thường nhật của dân chúng thông qua các phát minh như bánh xe, sử dụng bò trong sản xuất, dệt vải, làm đồ uống có cồn, gia công kim loại tinh xảo tạo ra các vũ khí và công cụ mới, cùng các đồ trang sức bằng vàng và kim cương tinh tế. Theo một số nguồn, Ireland vào cuối thời kỳ đồ đồng là bộ phận của một văn hóa mạng lưới giao dịch hàng hải tên là Thời kỳ đồ đồng Đại Tây Dương, cùng với Anh Quốc, miền tây Pháp và Iberia, là những nơi ngôn ngữ Celt phát triển.[5][6][7][8] Điều này tương phản với quan điểm truyền thống rằng nguồn gốc chúng là tại châu Âu lục địa cùng với văn hoá Hallstatt.

    Sự xuất hiện của người Celt ở Ireland  Vòng tròn đá Uragh thuộc thời đại đồ đá mới, nay thuộc công viên Gleninchaquin, hạt Kerry

    Trong thời kỳ đồ sắt, một ngôn ngữ và văn hóa Celt xuất hiện tại Ireland. Cách thức và thời điểm đảo Ireland bị Celt hoá là đề tài tranh luận. Một quan điểm truyền thống có từ lâu là ngôn ngữ Celt, chữ viết Ogham và văn hoá Celt được đưa đến Ireland theo các làn sóng người Celt xâm chiếm hoặc di cư từ châu Âu lục địa. Thuyết này dựa theo Lebor Gabála Érenn, một tác phẩm giả sử học Cơ Đốc giáo Trung Cổ của Ireland, cùng với sự hiện diện của văn hóa, ngôn ngữ và đồ tạo tác Celt phát hiện được trên đảo. Theo thuyết này, có 4 cuộc xâm chiếm của người Celt tại Ireland. Đầu tiên được cho là là người Priteni, tiếp theo là người Belgae từ miền bắc Gaul và đảo Anh. Tiếp đó, các bộ lạc Laighin từ Armorica (nay là Bretagne của Pháp) được cho là xâm chiếm đảo Ireland và đảo Anh gần như đồng thời. Cuối cùng, người Milesia (người Gael) được cho là đến Ireland từ miền bắc Iberia hoặc miền nam Gaul.[9]

    Một thuyết gần đây hơn cho rằng văn hóa và ngôn ngữ Celt đến Ireland là kết quả của truyền bá văn hóa, theo đó Celt hóa Ireland có thể là đỉnh điểm của một quá trình tác động văn hóa và kinh tế lâu dài giữa đảo Ireland, đảo Anh và các khu vực lân cận của châu Âu lục địa. Thuyết này được thúc đẩy một phần là do thiếu các chứng cứ khảo cổ học về nhập cư Celt quy mô lớn, song nó chấp thuận rằng những chuyển động như vậy rất khó để xác định. Một số người đề xướng thuyết này cho rằng có thể có các nhóm nhỏ người Celt di cư đến Ireland, song không phải là nguyên nhân cơ bản khiến đảo bị Celt hóa. Các nhà ngôn ngữ học lịch sử hoài nghi về việc đây là cách thức duy nhất giải thích cho việc hấp thu ngôn ngữ Celt.[10][11] Nghiên cứu di truyền phát hiện rằng không có khác biệt đáng kể trong DNA ty thể giữa Ireland và các khu vực lớn tại châu Âu lục địa, tương phản với một phần mô hình nhiễm sắc thể Y. Một nghiên cứu gần đây kết luận rằng người nói tiếng Celt hiện đại tại Ireland có thể được cho là "người Celt Đại Tây Dương" châu Âu có tổ tiên chung trên khắp khu vực Đại Tây Dương từ miền bắc Iberia đến miền tây Scandinavia chứ không phải về cơ bản là Trung Âu.[12]

    Thời kỳ cuối cổ đại và đầu trung đại

    Bản ghi chép sớm nhất về Ireland đến từ các nhà địa lý học Hy Lạp-La Mã cổ điển. Ptolemy trong Almagest gọi đảo Ireland là Mikra Brettania (đảo Anh nhỏ) và ông gọi đảo Anh là Megale Brettania (đảo Anh lớn).[13] Trong tác phẩm Geography sau đó, Ptolemy gọi đảo Ireland là Iouernia và gọi đảo Anh là Albion. Các tên mới này có vẻ là tên địa phương của các đảo khi đó. Các tên gọi sớm hơn có vẻ được đặt ra trước khi có tiếp xúc trực tiếp với dân chúng địa phương.[14]

    Người La Mã sau đó gọi Ireland bằng tên gọi này theo dạng La Tinh hoá là Hibernia,[15] hoặc Scotia.[16] Ptolemy ghi lại 16 quốc gia tại mỗi bộ phận của Ireland vào năm 100.[17] Không rõ về quan hệ giữa đế quốc La Mã và các vương quốc tại Ireland, tuy nhiên phát hiện được một số tiền xu La Mã trên đảo.[18]

    Đảo Ireland tiếp tục là nơi có các vương quốc kình địch nhau, từ thế kỷ VII khái niệm về vương quyền dân tộc dần trở nên rõ ràng thông qua khai niệm về "thượng vương Ireland". Văn học Ireland trung đại phác họa một loạt thượng vương hầu như không gián đoạn trong hàng nghìn năm, song các sử gia hiện đại cho rằng điều này được dựng nên trong thế kỷ VIII nhằm biện minh cho vị thế của các nhóm chính trị quyền lực.[19] Toàn bộ các vương quốc trên đảo Ireland có quốc vương riêng song trên danh nghĩa lệ thuộc thượng vương. Thượng vương xuất thân từ các quốc vương và quân chủ địa phương, có thủ đô nghi lễ trên đồi Tara. Khái niệm không trở thành một hiện thực chính trị cho đến thời kỳ Viking và thậm chí sau đó cũng không nhất quán.[20] Ireland có quy chế pháp luật thống nhất về văn hoá: hệ thống tư pháp thành văn sơ khởi là Luật Brehon, do một tầng lớp luật gia chuyên nghiệp gọi là brehons thi hành.[21]

     Nhà thờ Gallarus, một trong những nhà thờ sớm nhất được xây dựng tại Ireland

    Biên niên sử Ireland viết rằng vào năm 431, Giám mục Palladius đến Ireland theo lệnh Giáo hoàng Celestine I để giúp người Ireland "vững tin vào Chúa".[22] Tác phẩm này còn ghi rằng Thánh Patrick bảo trợ cho Ireland đến đảo trong cùng năm. Tiếp tục tồn tại tranh luận về các sứ mệnh của Palladius và Patrick, song đồng thuận rằng chúng diễn ra[23] và rằng truyền thống druid trước đó bị tan vỡ khi đối diện với tôn giáo mới.[24] Các học giả Cơ Đốc giáo Ireland xuất sắc trong học tập kiến thức La Tinh và Hy Lạp và thần học Cơ Đốc giáo. Trong văn hoá tu viện sau khi Ireland bị Cơ Đốc giáo hoá, kiến thức La Tinh và Hy Lạp được bảo tồn tại Ireland trong sơ kỳ Trung Cổ.[24][25]

    Năm 563, một tu sĩ Ireland là Columba thành lập một hội truyền giáo trên đảo Iona (nay thuộc Scotland), bắt đầu truyền thống hội truyền giáo Ireland hoạt động nhằm truyền bá Cơ Đốc giáo Celt và kiến thức đến Scotland, Anh và đế quốc Frank tại châu Âu lục địa sau khi La Mã sụp đổ.[26] Các hội truyền giáo này tiếp tục cho đến hậu kỳ Trung Cổ, họ lập ra các tu viện và trung tâm kiến thức, sản sinh các học giả như Sedulius Scottus và Johannes Eriugena và gây nhiều ảnh hưởng tại châu Âu. Từ thế kỷ IX, các làn sóng hải tặc Viking tiến hành cướp bóc các tu viện và thị trấn Ireland.[27] Người Viking cũng tham gia thành lập hầu hết các khu định cư duyên hải lớn tại Ireland: Dublin, Limerick, Cork, Wexford, Waterford và các khu định cư nhỏ khác.[28]

    Người Norman và Anh xâm chiếm  Tàn dư của Thành Trim thế kỷ XII tại hạt Meath, là thành Norman lớn nhất tại Ireland

    Ngày 1 tháng 5 năm 1169, một đội viễn chinh gồm các hiệp sĩ Cambria-Norman với khoảng 600 người đổ bộ lên bờ biển Bannow nay thuộc hạt Wexford. Đội quân do Richard de Clare chỉ huy.[29] Cuộc xâm chiếm trùng hợp với một giai đoạn người Norman khôi phục bành trướng, và diễn ra theo lời mời của Quốc vương Leinster Dermot Mac Murrough.[30] Năm 1166, Mac Murrough đào thoát đến Anjou, Pháp sau chiến tranh với Breifne và tìm kiếm viện trợ từ quốc vương Angevin (cai trị Anh và một nửa nước Pháp ngày nay) là Henry II để tái chiếm Leinster. Năm 1171, Henry đến Ireland nhằm khảo sát tiến trình tổng thể cuộc viễn chinh. Henry thành công trong việc tái áp đặt quyền uy đối với Richard de Clare và các quân phiệt Cambria-Norman, thuyết phục nhiều quốc vương Ireland chấp thuận mình là chúa tể, dàn xếp này được xác nhận theo Hiệp định Windsor năm 1175.

    Cuộc xâm chiếm được hợp pháp hóa theo các điều khoản trong chiếu thư Laudabiliter của Giáo hoàng Adrianus IV vào năm 1155. Chiếu thư khuyến khích Henry nắm quyền kiểm soát Ireland nhằm giám sát tái tổ thức tài chính và hành chính của Giáo hội Ireland và tích hợp họ vào hệ thống Giáo hội La Mã.[31] Một số bước tái cơ cấu đã được bắt đầu ở cấp giáo hội sau hội nghị tại Kells vào năm 1152.[32] Tồn tại tranh luận đáng kể về tính xác thực của Laudabiliter [33]

    Năm 1172, tân giáo hoàng là Alexander III khuyến khích Henry hơn nữa trong việc thúc đẩy hợp nhất Giáo hội Ireland với Giáo hội La Mã. Đổi lại, Henry nhận tước hiệu "Chúa Ireland" và ông trao nó cho con trai là John Lackland vào năm 1185. Sự kiện này xác định nhà nước Ireland với vị thế Lãnh địa Ireland. Năm 1199, John kế thừa vương vị Anh và giữ lại tước chúa của Ireland.

     Các binh sĩ Ireland, 1521 – của Albrecht Dürer

    Trong thế kỷ tiếp theo, luật phong kiến Norman dần thay thế Luật Brehon Gael, đến cuối thế kỷ XIII người Norman tại Ireland lập ra một hệ thống phong kiến trên phần lớn đảo. Các khu định cư của người Norman có đặc điểm là lập ra lãnh địa nam tước, thái ấp, đô thị và hạt, giống hệ thống hạt hiện đại. Một phiên bản của Magna Carta (Đại hiến chương Ireland), thay thế Dublin cho London và Giáo hội Ireland cho Giáo hội Anh, được phát hành vào năm 1216 và Nghị viện Ireland được thành lập vào năm 1297.

    Từ giữa thế kỷ XIV, sau Cái chết Đen, các khu định cư Norman tại Ireland lâm vào một giai đoạn suy thoái. Những người cai trị Norman và tầng lớp tinh hoa Ireland Gael liên hôn và các khu vực do người Norman cai trị bị Gael hóa. Tại một số nơi, xuất hiện văn hóa lai tạp Ireland-Norman. Nhằm phản ứng, Nghị viện Ireland thông qua Quy chế Kilkenny vào năm 1367, đây là một bộ luật nhằm ngăn chặn đồng hóa người Norman vào xã hội Ireland bằng cách yêu cầu các thần dân Anh tại Ireland nói tiếng Anh, tuân theo phong tục Anh và pháp luật Anh.[34]

    Đến cuối thế kỷ XV, quyền lực trung ương Anh tại Ireland gần như biến mất và văn hoá cùng ngôn ngữ Ireland hồi sinh lại chiếm ưu thế, dù có ảnh hưởng của Norman. Quyền kiểm soát của quân chủ Anh vẫn tương đối vững chắc trong một khu vực không được định rõ bao quanh Dublin gọi là The Pale, và theo các điều khoản trong Luật Poynings vào năm 1494, luật pháp do Nghị viện Ireland ban hành cần được Nghị viện Anh phê chuẩn.[35]

    Vương quốc Ireland  Cảnh trong The Image of Irelande (1581) thể hiện một tù trưởng tại một bữa tiệc

    Tước hiệu quốc vương Ireland được Quốc vương Anh Henry VIII tái lập vào năm 1542. Pháp quyền Anh được củng cố và mở rộng tại Ireland trong thời gian cuối của thế kỷ XVI, dẫn đến triều đình Tudor chinh phục Ireland. Cuộc chinh phục gần như hoàn tất khi bước sang thế kỷ XVII.

    Quyền kiểm soát này càng được củng cố trong các cuộc chiến và xung đột vào thế kỷ XVII, cùng với đó là việc người Anh và người Scotland thực dân hóa các đồn điền tại Ireland, chiến tranh Ba Vương quốc và chiến tranh giữa hai phe ủng hộ James II và William III. Theo ước tính, tổn thất của Ireland trong chiến tranh Ba Vương quốc là 20.000 người thiệt mạng trên chiến trường. Cũng theo ước tính, có 200.000 thường dân thiệt mạng do kết hợp từ nạn đói do chiến tranh, di tán, hoạt động du kích và dịch bệnh trong thời gian chiến tranh. Có thêm 50.000 người bị đưa đi lao dịch có khế ước tại Tây Ấn. Một số sử gia ước tính có đến một nửa dân số Ireland thời tiền chiến đã thiệt mạng do hậu quả của xung đột.[36]

    Các cuộc đấu tranh tôn giáo trong thế kỷ XVII để lại phân chia tông phái sâu sắc tại Ireland. Lòng trung thành tôn giáo theo pháp luật giờ đây sẽ quyết định nhận thức về lòng trung thành với quốc vương và nghị viện của Ireland. Sau khi thông qua Đạo luật Test năm 1672, cùng với chiến thắng của lực lượng William-Mary trước phái Jacob, người Công giáo La Mã và người Tin Lành bất đồng không phù hợp đều bị ngăn cấm làm nghị viên Ireland. Theo luật hình sự mới xuất hiện, người Công giáo La Mã và người Tin Lành bất đồng tại Ireland ngày càng bị tước đoạt các quyền dân sự khác nhau, thậm chí là quyền sở hữu tài sản thừa kế. Các đạo luật trừng phạt bổ sung có hồi tố được ban hành vào các năm 1703, 1709 và 1728. Điều này hoàn thành một nỗ lực toàn diện có hệ thống nhằm gây bất lợi lớn cho người Công giáo La Mã và Tin Lành bất đồng, trong khi làm lợi thêm cho tầng lớp cai trị mới gồm các tín đồ Anh giáo phục tùng.[37]

     Tra tấn bằng cách treo cổ người bị nghi ngờ theo phái Ireland Liên hiệp

    Một đột biến khí hậu gọi là "Sương giá lớn" tác động đến Ireland và phần còn lại của châu Âu từ tháng 12 năm 1739 đến tháng 9 năm 1741. Mùa đông tàn phá loại các cây trồng chủ đạo có thể tích trữ như khoai tây còn mùa hè yếu tàn phá nghiêm trọng thu hoạch.[38] Điều này dẫn đến nạn đói năm 1740, có ước tính cho rằng 250.000 nghìn người (khoảng 1/8 dân số) thiệt mạng do nhiễm trùng và dịch bệnh.[39] Sau nạn đói, sản xuất công nghiệp và mậu dịch gia tăng tạo ra các đợt bùng nổ xây dựng kế tiếp nhau. Dân số tăng cao vào cuối thế kỷ này và di sản kiến trúc George Ireland được tạo dựng. Năm 1782, Luật Poynings bị bãi bỏ, trao cho Ireland quyền lập pháp độc lập với Anh lần đầu tiên kể từ năm 1495. Tuy nhiên, Chính phủ Anh duy trì quyền bổ nhiệm Chính phủ Ireland mà không cần nghị viện Ireland tán thành.

    Liên hiệp với Anh

    Năm 1798, các thành viên Tin Lành bất đồng truyền thống (chủ yếu là Trưởng Lão) và người Công giáo La Mã tiến hành một cuộc khởi nghĩa cộng hòa do Hội người Ireland Liên hiệp lãnh đạo, mục tiêu là Ireland độc lập. Dù có viện trợ của Pháp, cuộc khởi nghĩa vẫn bị đàn áp. Năm 1800, nghị viện của Anh và Ireland đều thông qua Đạo luật Liên hiệp có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1801, theo đó hợp nhất Vương quốc Ireland và Vương quốc Anh để hình thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland.[40] Việc thông qua đạo luật tại Nghị viện Ireland cuối cùng đạt được đa số đáng kể, sau khi từng thất bại vào năm 1799. Theo các văn kiện đương đại và phân tích lịch sử, điều này đạt được nhờ hối lộ ở mức độ đáng kể, cùng các tặng thưởng khác.[40] Theo đạo luật, nghị viện của Ireland bị bãi bỏ và thay thế nó là nghị viện liên hiệp tại Westminster, Luân Đôn, song kháng cự vẫn tồn tại chẳng hạn như khởi nghĩa Ireland năm 1803.

    Ngoại trừ ngành vải lanh thì Ireland phần lớn bị cách mạng công nghiệp bỏ qua, một phần là do đảo thiếu tài nguyên than đá và sắt[41][42] và một phần là do tác động từ việc liên hiệp đột ngột với một nước Anh vốn có kết cấu kinh tế ưu việt,[43] Anh nhìn nhận Ireland là một nguồn cung nông sản và tư bản.[44][45]

     Tác phẩm của Henry Doyle mô tả cảnh di cư sang châu Mỹ sau nạn đói lớn 1845–1852 tại Ireland

    Nạn đói lớn 1845–1851 tàn phá Ireland, trong những năm này dân số Ireland giảm một phần ba. Có trên một triệu người thiệt mạng do đói và dịch bệnh, hai triệu người khác di cư, hầu hết là đến Hoa Kỳ và Canada.[46] Tiếp sau nạn đói này là một giai đoạn bất ổn dân sự kéo dài đến cuối thế kỷ XIX, được gọi là chiến tranh đất đai. Di cư hàng loạt trở nên phổ biến và khiến dân số tiếp tục giảm cho đến giữa thế kỷ XX. Ngay trước nạn đói, dân số được ghi nhận là 8,2 triệu theo điều tra nhân khẩu năm 1841,[47] kể từ đó chưa từng quay lại được mức này.[48]

    Trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa dân tộc Ireland hiện đại dâng cao, chủ yếu là trong cộng đồng Công giáo La Mã. Daniel O'Connell là nhân vật chính trị ưu tú người Ireland sau khi liên hiệp với Anh. Ông đắc cử nghị viên thuộc đơn vị Ennis gây ra bất ngờ song ông không thể nhậm chức do là người Công giáo La Mã. O'Connell xung kích trong một chiến dịch nhận được ủng hộ của thủ tướng là Công tước Wellington, một người sinh tại Ireland. Đạo luật Cứu trợ Công giáo được Quốc vương George IV ký thành luật, dù phụ vương của ông là George III từng phản đối một dự luật như vậy vào năm 1801 do lo ngại việc giải phóng cho Công giáo sẽ xung khắc với Đạo luật Định cư 1701.

    Daniel O'Connell sau đó lãnh đạo một chiến dịch yêu cầu bãi bỏ Đạo luật Liên hiệp, song thất bại. Cũng trong thế kỷ này, Charles Stewart Parnell và những người khác vận động giành quyền tự trị trong Liên hiệp. Những người theo phái liên hiệp phản đối mạnh mẽ tự trị, đặc biệt là người khu vực Ulster, vì họ cho rằng nó sẽ bị các lợi ích của Công giáo chi phối.[49] Sau vài nỗ lực nhằm thông qua một dự luật tự trị tại nghị viện, tình hình có vẻ chắc chắn rằng một dự luật rốt cuộc sẽ được thông qua vào năm 1914. Nhằm ngăn chặn khả năng này, Quân Tình nguyện Ulster được thành lập vào năm 1913 dưới quyền lãnh đạo của Edward Carson.[50]

    Đến năm 1914, Quân Tình nguyện Ireland được thành lập với mục tiêu là đảm bảo rằng Dự luật Tự trị địa phương được thông qua. Đạo luật này được thông qua song "tạm thời" loại trừ 6 hạt của Ulster mà sau này trở thành Bắc Ireland. Tuy nhiên, đạo luật bị đình chỉ trước khi thi hành trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất. Quân Tình nguyện Ireland bị phân làm hai nhóm. Đa số với khoảng 175.000 người nằm dưới quyền của John Redmond, lấy tên là Quân Tình nguyện Dân tộc và ủng hộ Ireland tham gia đại chiến. Thiểu số với khoảng 13.000 người vẫn lấy tên gọi Quân Tình nguyện Ireland và phản đối Ireland tham gia đại chiến.[50] Nhóm thiểu số này tiến hành khởi nghĩa Phục Sinh năm 1916 cùng với một nhóm dân quân xã hội nhỏ là Quân đội Công dân Ireland. Người Anh cho hành quyết 15 thủ lĩnh khởi nghĩa và tống giam hơn một nghìn người, khiến tâm trạng dân chúng chuyển sang ủng hộ phiến quân. Sự ủng hộ dành cho chủ nghĩa cộng hoà Ireland tăng lên hơn nữa do chiến tranh tiếp diễn tại châu Âu, cũng như khủng hoảng quân dịch năm 1918.[51]

    Đảng ủng hộ độc lập là Sinn Féin giành được ủng hộ mạnh mẽ trong tổng tuyển cử năm 1918, đến 1919 họ tuyên bố thành lập một nước Cộng hoà Ireland, lập nghị viện và chính phủ riêng. Đồng thời quân tình nguyện nay gọi là Quân đội Cộng hoà Ireland (IRA) phát động chiến tranh du kích kéo dài trong ba năm, kết thúc bằng một hòa ước vào tháng 7 năm 1921 (song bạo lực tiếp tục cho đến tháng 6 năm 1922, hầu hết là tại Bắc Ireland).[51]

    Phân chia

    Tháng 12 năm 1921, Hiệp định Anh-Ireland được ký kết giữa Chính phủ Anh và các đại biểu của nghị viện Ireland khoá II. Hiệp định trao cho Ireland độc lập hoàn toàn trong nội vụ và độc lập thực tế trong chính sách ngoại giao, song có một điều khoản lựa chọn không tham gia, cho phép Bắc Ireland duy trì là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp. Ngoài ra, nó còn yêu cầu tuyên thệ trung thành với quốc vương.[52] Bất đồng về các điều khoản này dẫn đến phân liệt trong phong trào dân tộc và sau đó là nội chiến giữa tân chính phủ của Nhà nước Tự do Ireland và phái phản đối hiệp định do Éamon de Valera lãnh đạo. Nội chiến kết thúc vào tháng 5 năm 1923 khi Éamon de Valera ban hành lệnh đình chiến.[53]

    Ireland độc lập

    Trong thập niên đầu tiên, Nhà nước Tự do Ireland mới thành lập nằm dưới quyền cai quản của những người chiến thắng trong nội chiến. Đến khi Éamon de Valera lên nắm quyền, ông tận dụng Pháp lệnh Westminster và tình thế chính trị để xây dựng nền móng cho chủ quyền cao hơn. Việc tuyên thệ trung thành với quốc vương bị bãi bỏ vào năm 1937 khi hiến pháp mới được thông qua.[51] Điều này hoàn tất một quá trình dần ly khai khỏi đế quốc Anh được chính phủ theo đuổi từ khi độc lập. Tuy nhiên, đến năm 1949, thì nhà nước mới chính thức trở thành Cộng hoà Ireland.

    Ireland trung lập trong chiến tranh thế giới thứ hai, song cung cấp viện trợ bí mật cho Đồng Minh, đặc biệt là năng lực phòng thủ của Bắc Ireland. Dù trung lập, song có khoảng 50.000[54] quân tình nguyện từ nước Ireland độc lập gia nhập lực lượng Anh trong chiến tranh.

    Xuất cư quy mô lớn diễn ra trong hầu hết giai đoạn hậu chiến (đặc biệt là trong thập niên 1950 và 1980), song kinh tế được cải thiện từ năm 1987, trong thập niên 1990 bắt đầu có tăng trưởng kinh tế đáng kể. Giai đoạn tăng trưởng này được gọi là Con hổ Celtic.[55] Tăng trưởng GDP thực tế của Cộng hoà Ireland đạt trung bình 9,6% mỗi năm từ 1995 đến 1999,[56] đến năm 1999 nước này gia nhập khu vực sử dụng đồng euro. Năm 2000, Ireland là quốc gia giàu có thứ sáu trên thế giới xét theo GDP bình quân.[57]

    Biến đổi xã hội cũng diễn ra trong thời gian này, rõ ràng nhất là suy thoái quyền thế của Giáo hội Công giáo. Khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2008 làm kết thúc đột ngột giai đoạn bùng nổ kinh tế của Ireland. GDP giảm 3% vào năm 2008 và 7,1% vào năm 2009, là năm tệ hại nhất từ khi có tính toán.[58] Cộng hoà Ireland từ đó trải qua suy thoái sâu sắc, với tỷ lệ thất nghiệp duy trì trên 14% vào năm 2012.[59]

    Bắc Ireland

    Bắc Ireland được lập ra với vị thế một đơn vị của Anh theo Đạo luật Chính phủ Ireland năm 1920 và có quyền hạn tự trị bên trong Anh với nghị viện và thủ tướng riêng cho đến năm 1972. Bắc Ireland do là bộ phận của Anh nên không trung lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai và thủ đô Belfast bị 4 trận oanh tạc vào năm 1941. Chế độ quân dịch không mở rộng đến Bắc Ireland và số quân tình nguyện từ Bắc Ireland gần như bằng số quân tình nguyện đến từ Ireland độc lập.

    Dù Bắc Ireland phần lớn tránh được xung đột trong nội chiến Ireland, song vào các thập niên sau khi phân chia đã xảy ra xung đột lẻ tẻ giữa các cộng đồng. Những người dân tộc chủ nghĩa chủ yếu là tín đồ Công giáo La Mã, họ muốn thống nhất đảo Ireland thành một nước cộng hòa, trong khi những người liên hiệp chủ nghĩa chủ yếu theo Tin Lành và muốn Bắc Ireland duy trì là bộ phận của Anh. Các cộng đồng Tin Lành và Công giáo La Mã tại Bắc Ireland phần lớn bỏ phiếu theo làn ranh giáo phái, đồng nghĩa với việc Chính phủ Bắc Ireland (bầu theo thể thức đa số) do Đảng Liên hiệp Ulster kiểm soát. Theo thời gian, cộng đồng Công giáo La Mã thiểu số ngày càng cảm thấy bị xa lánh cùng với gia tăng bất mãn do sắp xếp khu vực bầu cử gây bất lợi cho họ, hay họ bị kì thị trong nhà ở và công việc.[60][61][62]

    Đến cuối thập niên 1960, bất bình của phái dân tộc chủ nghĩa bộc lộ công khai trong các cuộc kháng nghị dân quyền đại chúng, song thường phải đương đầu với các cuộc phản kháng của phái trung thành.[63] Phản ứng của chính phủ được cho là một chiều và mạnh tay theo hướng ủng hộ phái Liên hiệp. Pháp luật và trật tự bị phá vỡ khi náo loạn và bạo lực giữa các cộng đồng tăng lên.[64] Chính phủ Bắc Ireland yêu cầu Lục quân Anh viện trợ cảnh sát. Năm 1969, Quân đội Cộng hoà Ireland Lâm thời bán quân sự xuất hiện do tách ra từ Quân đội Cộng hoà Ireland, họ ủng hộ thành lập một Ireland thống nhất, và bắt đầu tiến hành một chiến dịch chống lại điều mà họ gọi là "sự chiếm đóng của Anh tại sáu hạt".

    Các nhóm khác thuộc cả bên phía liên hiệp và dân tộc cũng tham gia vào bạo lực, một thời kỳ được gọi là the Troubles bắt đầu. Có trên 3.600 người thiệt mạng trong ba thập niên xung đột.[65] Do bất ổn dân sự, Chính phủ Anh đình chỉ tự trị vào năm 1972 và áp đặt cai trị trực tiếp đối với Bắc Ireland. Năm 1998, sau một lệnh đình chiến của Quân đội Cộng hoà Ireland Lâm thời và đàm phán nhiều bên, Hiệp nghị Thứ sáu Tốt lành được ký kết giữa chính phủ Anh và Ireland, bổ sung văn bản nhất trí trong đàm phán nhiều bên.

    Nội dung của hiệp nghị sau đó được tán thành thông qua trưng cầu dân ý tại cả hai bộ phận của đảo Ireland. Hiệp nghị khôi phục tự trị cho Bắc Ireland trên cơ sở chia sẻ quyền lực trong hành pháp giữa các đảng lớn trong Nghị hội Bắc Ireland. Cơ quan hành pháp cùng nằm dưới quyền của một bộ trưởng thứ nhất và thứ trưởng thứ nhất đến từ các đảng liên hiệp và dân tộc. Bạo lực giảm mạnh sau khi đình chiến vào năm 1994 và đến năm 2005 Quân đội Cộng hoà Ireland Lâm thời tuyên bố kết thúc chiến dịch vũ trang của họ, một ủy ban độc lập giám sát giải trừ quân bị của lực lượng này và các tổ chức dân quân dân tộc và liên hiệp khác.[66]

    Nghị hội và cơ quan hành pháp chia sẻ quyền lực bị đình chỉ vài lần song lại được khôi phục vào năm 2007. Trong năm này, Chính phủ Anh chính thức kết thúc hỗ trợ quân sự cho cảnh sát Bắc Ireland và bắt đầu triệt thoái binh sĩ.

    ^ Edwards, Robin & al. "The Island of Ireland: Drowning the Myth of an Irish Land-bridge?" Accessed ngày 15 tháng 2 năm 2013. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BBC2016-03-21 ^ Ward, Paul Ward (2010), Tort Law in Ireland, Kluwer Law International, tr. 12, Historically, 7000 BC can be identified as the earliest date when settlers from Britain arrived in Ireland. By 3000 BC, Stone Age or Neolithic people arrived and their stone monuments are evident today across the landscape. In 2000 BC, Bronze-Age metalworkers arrived in Ireland ^ Heritage Ireland. “Céide Fields”. Office of Public Works. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2008. ^ “O'Donnell Lecture 2008 Appendix” (PDF). ^ Koch, John (2009). Tartessian: Celtic from the Southwest at the Dawn of History in Acta Palaeohispanica X Palaeohispanica 9 (2009) (PDF). Palaeohispanica. tr. 339–351. ISSN 1578-5386. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010. ^ John T. Koch; Barry Cunliffe biên tập (2010). Celtic from the West: Alternative Perspectives from Archaeology, Genetics, Language and Literature. Oxbow Books and Celtic Studies Publications. tr. 384. ISBN 978-1-84217-529-3. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016. ^ Cunliffe, Barry (2008). A Race Apart: Insularity and Connectivity in Proceedings of the Prehistoric Society 75, 2009, pp. 55–64. The Prehistoric Society. tr. 61. ^ The Celts: A History By Dáithí Ó hÓgáin ^ Waddell, John (tháng 4 năm 1995). Ireland in the Bronze Age (PDF). Dublin: Irish Government Stationery Office. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2015. ^ Waddell, John (tháng 9 năm 1992). The Question of the Celticization of Ireland (PDF). Emania. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2015. ^ McEvoy, B; Richards, M; Forster, P; Bradley, DG (tháng 10 năm 2004). “The Longue Durée of Genetic Ancestry: Multiple Genetic Marker Systems and Celtic Origins on the Atlantic Facade of Europe”. Am. J. Hum. Genet. 75: 693–702. doi:10.1086/424697. PMC 1182057. PMID 15309688. ^ Freeman, Philip (2001). Ireland and the classical world. Austin, Texas: University of Texas Press. tr. 65. ISBN 0-292-72518-3. ^ Freeman, Philip (2001). Ireland and the Classical World. Austin: University of Texas Press. ^ “Hibernia”. Roman Empire. United Nations of Roma Victrix. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008. ^ O'Hart, John (1892). Irish Pedigrees: or, The Origin and Stem of the Irish Nation. Dublin: J. Duffy and Co. tr. 725. ^ Darcy, R; Flynn, William (tháng 3 năm 2008). “Ptolemy's Map of Ireland: a Modern Decoding”. Irish Geography. Informaworld.com. 14 (1): 49–69. doi:10.1080/00750770801909375. ^ Carson, R.A.G. and O'Kelly, Claire: A catalogue of the Roman coins from Newgrange, Co. Meath and notes on the coins and related finds, pages 35–55. Proceedings of the Royal Irish Academy, volume 77, section C ^ Dáibhí Ó Cróinín, "Ireland, 400–800", in Dáibhí Ó Cróinín (ed.), A New History of Ireland 1: Prehistoric and Early Ireland, Oxford University Press, 2005, pp. 182–234. ^ Jaski, Bart (2005). “Kings and kingship”. Trong Seán Duffy (biên tập). Medieval Ireland. An Encyclopedia. Abingdon and New York. tr. 251–254., p.253 ^ Ginnell, Laurence (1894). The Brehon laws: a legal handbook. T Fisher Unwin. tr. 81. ^   Patrick Francis Moran (1913). “St. Palladius” . Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company. ^ De Paor, Liam (1993). Saint Patrick's World: The Christian culture of Ireland's Apostolic Age. Dublin: Four Courts, Dublin. tr. 78, 79. ISBN 1-85182-144-9. ^ a b Cahill, Tim (1996). How the Irish Saved Civilization. Anchor Books. ISBN 0-385-41849-3. ^ Dowley, Tim; và đồng nghiệp biên tập (1977). Eerdman's Handbook to the History of Christianity. Grand Rapids, Michigan: Wm. B. Eerdmans Publishing Co. ISBN 0-8028-3450-7. ^ Bartlett, Thomas (2010). Ireland: A History. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-19720-5. ^ Ó Corráin, Donnchadh. “Vikings & Ireland” (PDF). Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2010. ^ “Ireland's History in Maps (800 AD)”. Rootsweb.ancestry.com. ngày 6 tháng 12 năm 1998. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2011. ^ Chrisafis, Angelique (ngày 25 tháng 1 năm 2005). “Scion of traitors and warlords: why Bush is coy about his Irish links”. World News. London: The Guardian. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008. ^ Previté-Orton, Charles (1975). The Shorter Cambridge Medieval History. Cambridge University Press. tr. 810. ISBN 978-0-521-09977-6. ^ Curtis, Edmund (2002). A History of Ireland from Earliest Times to 1922. New York: Routledge. tr. 49. ISBN 0-415-27949-6. ^ Edwards, Ruth; và đồng nghiệp (2005). An Atlas of Irish History. Routledge. tr. 106. ISBN 978-0-415-33952-0. ^ Ó Clabaigh, Colmán N. (2005). “Papacy”. Trong Seán Duffy (biên tập). Medieval Ireland. An Encyclopedia. Abingdon and New York. tr. 361–362. ^ “The Great Irish Famine: Laws that Isolated and Impoverished the Irish” (PDF). Irish Famine Curriculum Committee. New Jersey Commission on Holocaust Education. 1998. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2011. ^ Pack, Mark (2001). “Charles James Fox, the Repeal of Poynings Law, and the Act of Union: 1782–1801”. Journal of Liberal History. 33: 6. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2015. ^ “The curse of Cromwell”. A Short History of Ireland. BBC Northern Ireland. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008. ^ “Laws in Ireland for the Suppression of Popery”. University of Minnesota Law School. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2009. ^ Dickson, David (1997). Arctic Ireland: The Extraordinary Story of the Great Frost and Forgotten Famine of 1740–41. Belfast: White Row Press Ltd. ISBN 978-1-870132-85-5. ^ Ó Gráda, Cormac (1989). The Great Irish Famine. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 12. ISBN 0-521-55266-4. ^ a b Ward, Alan J. (1994). The Irish Constitutional Tradition: Responsible Government and Modern Ireland, 1782–1992. Washington, DC: Catholic University of America Press. tr. 28. ISBN 0-8132-0784-3. ^ “Ireland AD 1750–1900 The Industrial Age”. worldtimelines.org.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2010. ^ O'Grada, Cormac (1994). Ireland: A New Economic History, 1780–1939. Oxford University Press. tr. 314–330. ISBN 978-0-19-820598-2. ^ Keating, Paul; Desmond, Derry (1993). Culture and Capitalism in Contemporary Ireland. Hants, UK: Avebury. tr. 119. ISBN 1-85628-362-3. ^ Jacobsen, John (1994). “Chasing Progress in the Irish Republic”. Cambridge: Cambridge University Press: 47. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) ^ Mokyr, Joel (1983). “Why Ireland Starved: A Quantitative and Analytical History of the Irish Economy, 1800–1850”. Oxon: Taylor and Francis: 152. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) ^ “The Irish Potato Famine”. Digital History. ngày 7 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008. ^ Vallely, Paul (ngày 25 tháng 4 năm 2006). “1841: A window on Victorian Britain—This Britain”. London: The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl= và |archive-url= (trợ giúp) ^ Quinn, Eamon (ngày 19 tháng 8 năm 2007). “Ireland Learns to Adapt to a Population Growth Spurt”. Europe. New York Times. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008. ^ Kee, Robert (1972). The Green Flag: A History of Irish Nationalism. London: Weidenfeld and Nicholson. tr. 376–400. ISBN 0-297-17987-X. ^ a b Kee, Robert (1972). The Green Flag: A History of Irish Nationalism. London: Weidenfeld and Nicholson. tr. 478–530. ISBN 0-297-17987-X. ^ a b c Morough, Michael (tháng 12 năm 2000). “History Review”: 34–36. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) ^ Kee, Robert (1972). The Green Flag: A History of Irish Nationalism. London: Weidenfeld and Nicholson. tr. 719–748. ISBN 0-297-17987-X. ^ Gwynn, Stephen (tháng 1 năm 1934). “Ireland Since the Treaty”. Foreign Affairs. 12 (2): 322. doi:10.2307/20030588. ^ Connolly, Kevin (ngày 1 tháng 6 năm 2004). “Irish who fought on the beaches”. Northern Ireland News. BBC. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008. ^ Clancy, Patrick; Sheelagh Drudy; Kathleen Lynch; Liam O'Dowd (1997). Irish Society: Sociological Perspectives. Institute of Public Administration. tr. 68–70. ISBN 1-872002-87-0. ^ Schmied, Doris (2005). Winning and Losing: the Changing Geography of Europe's Rural Areas. Chippenham, UK: Ashgate. tr. 234. ISBN 0-7546-4101-5. ^ OECD (ngày 2 tháng 9 năm 2009). “The Future of International Migration to OECD Countries”. Paris: OECD Publishing: 67. ISBN 978-92-64-04449-4. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) ^ Pogatchnik, Shawn (ngày 25 tháng 3 năm 2010). “Ireland's Economy Suffered Record Slump in 2009”. Business Week. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp) ^ “Measuring Ireland's Progress 2011” (PDF). Central Statistics Office. tháng 10 năm 2012. tr. 36. ISSN 1649-6728. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015. ^ Whyte, John. “'How much discrimination was there under the Unionist regime, 1921–1968?' by John Whyte”. Contemporary Irish Studies. Conflict Archive on the Internet. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2008. ^ “Fair Employment in Northern Ireland”. Northern Ireland Office. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2008. ^ "We Shall Overcome"... The History of the Struggle for Civil Rights in Northern Ireland 1968–1978 by NICRA (1978)”. Conflict Archive on the Internet. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2008. ^ Taylor, Peter (1997). Provos: The IRA and Sinn Féin. London: Bloomsbury Publishing Plc. tr. 33–56. ISBN 0-7475-3392-X. ^ Taylor, Peter (1997). Provos: The IRA and Sinn Féin. London: Bloomsbury Publishing Plc. tr. 56–100. ISBN 0-7475-3392-X. ^ “Turning the pages on lost lives”. BBC News. ngày 8 tháng 10 năm 1999. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2010. ^ Nieminen, Brigadier Tauno; General John de Chastelain; Andrew D. Sens. “Independent International Commission on Decommissioning” (PDF). Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2008.
    Read less

Where can you sleep near Đảo Ireland ?

Booking.com
489.856 visits in total, 9.196 Points of interest, 404 Đích, 21 visits today.