Context of Anh

Anh (tiếng Anh: England, ) là một quốc gia cấu thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Quốc gia này có biên giới trên bộ với Scotland về phía bắc và với Wales về phía tây. Biển Ireland nằm về phía tây bắc và biển Celtic nằm về phía tây nam của Anh. Anh tách biệt khỏi châu Âu lục địa qua biển Bắc về phía đông và eo biển Manche về phía nam. Anh nằm tại miền trung và miền nam đảo Anh và chiếm khoảng 5/8 diện tích của đảo; ngoài ra còn có trên 100 đảo nhỏ. Người hiện đại cư trú lần đầu tiên tại khu vực Anh ngày nay trong giai đoạn đồ đá cũ muộn, song "England" có tên gọi bắt nguồn từ một bộ lạc German là Angle, bộ lạc này định cư trên đảo vào thế kỷ V-VI. Anh trở thành một quốc gia thống nhất vào thế kỷ X, và kể từ thời đại Khám phá quốc gia này có tác động đáng kể về văn hoá và tư pháp trên thế giới. Vương quốc Anh (bao gồm Wales từ năm 1535) kết thúc vị thế một quốc gia có chủ quyền riêng biệt vào ngày 1 tháng 5 năm 1707, kh...Xem thêm

Anh (tiếng Anh: England, ) là một quốc gia cấu thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Quốc gia này có biên giới trên bộ với Scotland về phía bắc và với Wales về phía tây. Biển Ireland nằm về phía tây bắc và biển Celtic nằm về phía tây nam của Anh. Anh tách biệt khỏi châu Âu lục địa qua biển Bắc về phía đông và eo biển Manche về phía nam. Anh nằm tại miền trung và miền nam đảo Anh và chiếm khoảng 5/8 diện tích của đảo; ngoài ra còn có trên 100 đảo nhỏ. Người hiện đại cư trú lần đầu tiên tại khu vực Anh ngày nay trong giai đoạn đồ đá cũ muộn, song "England" có tên gọi bắt nguồn từ một bộ lạc German là Angle, bộ lạc này định cư trên đảo vào thế kỷ V-VI. Anh trở thành một quốc gia thống nhất vào thế kỷ X, và kể từ thời đại Khám phá quốc gia này có tác động đáng kể về văn hoá và tư pháp trên thế giới. Vương quốc Anh (bao gồm Wales từ năm 1535) kết thúc vị thế một quốc gia có chủ quyền riêng biệt vào ngày 1 tháng 5 năm 1707, khi các đạo luật liên minh có hiệu lực với kết quả là liên minh chính trị với Vương quốc Scotland để hình thành Vương quốc Anh liên hiệp. Tiếng Anh, giáo hội Anh giáo, và luật Anh (nền tảng của thông luật tại nhiều quốc gia) được phát triển tại Anh, và hệ thống chính phủ nghị viện của Anh được nhiều quốc gia khác áp dụng. Cách mạng công nghiệp bắt đầu tại Anh trong thế kỷ XVIII, chuyển đổi Anh trở thành quốc gia công nghiệp hoá đầu tiên trên thế giới.

Địa hình của Anh chủ yếu là đồi thấp và đồng bằng, đặc biệt là tại miền trung và miền nam. Tuy nhiên, có các vùng cao tại miền bắc và tây nam. Thủ đô của Anh là Luân Đôn, thuộc khu vực đại đô thị lớn nhất tại Anh Quốc cũng như Liên minh châu Âu. Dân số Anh đạt trên 53 triệu người, chiếm 84% dân số Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Phần lớn dân cư tập trung tại quanh Luân Đôn, vùng Đông Nam, và các khu thành thị tại Midlands, Tây Bắc, Đông Bắc và Yorkshire, là những nơi phát triển thành các vùng công nghiệp lớn trong thế kỷ XIX.

More about Anh

Basic information
  • Tên bản địa England
  • Calling code +44
Population, Area & Driving side
  • Population 46571900
  • Diện tích 130278
Lịch sử
  • Lịch sử Tiền sử và cổ đại  Stonehenge là một nơi kỷ niệm từ thời đồ đá mới

    Bằng chứng sớm nhất được biết đến về việc loài người hiện diện tại khu vực nay là Anh thuộc về chủng Homo antecessor, có niên đại khoảng 780.000 năm trước. Xương người nguyên thủy cổ nhất phát hiện được tại Anh có niên đại khoảng 500.000 năm trước.[1] Người hiện đại được cho là cư trú tại khu vực vào giai đoạn đồ đá cũ muộn, song các khu định cư cố định chỉ hình thành trong vòng 6.000 năm qua.[2][3] Sau kỷ băng hà cuối, chỉ còn lại các loài thú lớn như voi ma mút, bò rừng bison và tê giác lông mượt. Khoảng 11.000 năm trước, khi các phiến băng bắt đầu rút đi, con người lại cư trú trong khu vực; nghiên cứu di truyền gợi ý rằng họ đến từ phần phía bắc của bán đảo Iberia.[4] Mực nước biển thấp hơn ngày nay và Anh nối liền với Ireland cùng lục địa Á-Âu.[5] Đến khi mực nước biển dâng lên, Anh tách khỏi Ireland 10.000 năm trước và tách khỏi lục địa Á-Âu hai thiên niên kỷ sau đó.

    ...Xem thêm
    Lịch sử Tiền sử và cổ đại  Stonehenge là một nơi kỷ niệm từ thời đồ đá mới

    Bằng chứng sớm nhất được biết đến về việc loài người hiện diện tại khu vực nay là Anh thuộc về chủng Homo antecessor, có niên đại khoảng 780.000 năm trước. Xương người nguyên thủy cổ nhất phát hiện được tại Anh có niên đại khoảng 500.000 năm trước.[1] Người hiện đại được cho là cư trú tại khu vực vào giai đoạn đồ đá cũ muộn, song các khu định cư cố định chỉ hình thành trong vòng 6.000 năm qua.[2][3] Sau kỷ băng hà cuối, chỉ còn lại các loài thú lớn như voi ma mút, bò rừng bison và tê giác lông mượt. Khoảng 11.000 năm trước, khi các phiến băng bắt đầu rút đi, con người lại cư trú trong khu vực; nghiên cứu di truyền gợi ý rằng họ đến từ phần phía bắc của bán đảo Iberia.[4] Mực nước biển thấp hơn ngày nay và Anh nối liền với Ireland cùng lục địa Á-Âu.[5] Đến khi mực nước biển dâng lên, Anh tách khỏi Ireland 10.000 năm trước và tách khỏi lục địa Á-Âu hai thiên niên kỷ sau đó.

    Văn hoá Beaker đến vào khoảng 2.500 TCN, mang đến các bình đựng đồ ăn và đồ uống làm từ đất sét, cũng như các bình được sử dụng để nấu chảy quặng đồng.[6] Các công trình kỷ niệm đồ đá mới có quy mô lớn như Stonehenge và Avebury được xây dựng trong thời gian này. Thiếc và đồng là những khoáng sản phong phú trong khu vực, bằng cách nung chảy chúng với nhau cư dân thuộc văn hoá Beaker làm ra đồng điếu, và sau đó làm ra sắt từ quặng sắt. Luyện thép phát triển cho phép sản xuất ra cày tốt hơn, nông nghiệp tiến bộ, cũng như sản xuất vũ khí có tính hiệu quả hơn.[7]

     Boudica lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa chống Đế quốc La Mã

    Trong thời đại đồ sắt, văn hoá Celt đến Anh từ Trung Âu, văn hoá Celt lại bắt nguồn từ văn hoá Hallstatt và La Tène. Tiếng Britton là ngôn ngữ nói trong giai đoạn này. Xã hội mang tính bộ lạc, theo Geographia của Ptolemy thì có khoảng 20 bộ lạc trong khu vực. Giống như các khu vực khác nằm bên rìa La Mã, đảo Anh tham gia liên kết mậu dịch với La Mã trong thời gian dài. Julius Caesar của La Mã hai lần nỗ lực xâm chiếm Anh vào năm 55 TCN nhưng thất bại, ông lập ra một quốc vương phụ thuộc từ bộ lạc Trinovantes.

    Người La Mã xâm chiếm đảo Anh vào năm 43, sau đó họ chinh phục phần lớn hòn đảo và khu vực được hợp nhất vào Đế quốc La Mã với vị thế tỉnh Britannia.[8] Bộ lạc bản địa nổi tiếng nhất vì kháng cự La Mã là Catuvellauni dưới quyền Caratacus. Sau đó, có một cuộc khởi nghĩa dưới quyền Nữ vương Boudica của bộ lạc Iceni, song bà tự sát sau thất bại trong trận Watling Street.[9] Trong thời kỳ này, văn hoá Hy Lạp-La Mã thịnh hành khi du nhập luật La Mã, kiến trúc La Mã, cống dẫn nước, rãnh thoát nước, nhiều mặt hàng nông nghiệp và lụa.[10][11][12] Trong thế kỷ III, Hoàng đế Septimius Severus mất tại Eboracum (nay là York), đây cũng là nơi Constantinus xưng đế sau đó.[13]

    Tồn tại tranh luận về việc Cơ Đốc giáo du nhập lần đầu; điều này không muộn hơn thế kỷ IV và có lẽ là sớm hơn nhiều. Theo Bede, Giáo hoàng Eleutherius phái những người truyền giáo từ Roma theo thỉnh cầu của tù trưởng Lucius của Anh vào năm 180, nhằm giải quyết các bất đồng như giữa nghi thức phương Đông và phương Tây. Tồn tại các liên kết truyền thống đến Glastonbury thể hiện Cơ Đốc giáo du nhập thông qua Joseph của Arimathea, trong khi những người khác cho rằng thông qua Lucius.[14] Đến năm 410, trong giai đoạn La Mã suy thoái, quyền cai trị của La Mã kết thúc, các đơn vị quân đội La Mã triệt thoái khỏi đảo nhằm bảo vệ các biên giới tại châu Âu lục địa và tham gia nội chiến.[15]

    Trung Cổ  Bản sao mũ sắt nghi lễ Sutton Hoo từ Vương quốc East Anglia

    Đảo Anh để ngỏ trước các cuộc xâm chiếm của người ngoại giáo, các chiến binh hàng hải đến từ miền tây-bắc của châu Âu lục địa, chủ yếu là người Saxon, Angle, Jute, và Frisia, họ tập kích các vùng bờ biển và bắt đầu định cư, ban đầu là tại phần phía đông.[15] Bước tiến của họ bị kiềm chế trong vài thập niên sau khi người Briton chiến thắng trong trận núi Badon, song sau đó lại tiếp tục và họ tràn qua các vùng đất thấp phì nhiêu trên đảo, thu hẹp khu vực do người Briton kiểm soát thành một nhóm các vùng đất tách rời riêng biệt, trên những vùng có địa hình gồ ghề tại phía tây vào cuối thế kỷ VI. Các văn bản đương đại mô tả về giai đoạn này cực kỳ hiếm, khiến nó bị mô tả là một Thời kỳ Tăm tối. Tính chất và mức độ tiến triển của quá trình người Anglo-Saxon định cư tại Anh do đó là đề tài có bất đồng lớn. Cơ Đốc giáo do La Mã chi phối nhìn chung là biến mất khỏi các lãnh thổ bị người Anglo-Saxon chinh phục, song được những người truyền giáo từ Roma đưa đến một lần nữa dưới quyền lãnh đạo của Augustine từ năm 597 trở đi.[16]

    Trong giai đoạn định cư, khu vực do những người nhập cư German cai trị dường như bị phân mảnh thành nhiều lãnh thổ bộ lạc, song đến thế kỷ VII chúng tập hợp thành khoảng một chục vương quốc như Northumbria, Mercia, Wessex, East Anglia, Essex, Kent và Sussex. Trong các thế kỷ sau đó, quá trình thống nhất chính trị được tiếp tục.[17] Trong thế kỷ VII, diễn ra một cuộc đấu tranh vì quyền bá chủ giữa Northumbria và Mercia, sang thế kỷ VIII thì Mercia chiếm ưu thế.[18] Đầu thế kỷ IX, Wessex thay thế vị thế vương quốc quan trọng nhất của Mercia. Cũng trong thế kỷ IX, bộ lạc Dane cũng thuộc nhóm German leo thang tấn công với đỉnh điểm là chinh phục miền bắc và miền đông của Anh, lật đổ các vương quốc Northumbria, Mercia và East Anglia. Wessex dưới quyền Quốc vương Alfred là vương quốc duy nhất tại Anh còn tồn tại, và dưới thời những người kế vị của ông quốc gia này dần bành trướng sang các vương quốc nằm dưới luật của người Dane. Điều này dẫn đến thống nhất chính trị tại Anh, hoàn thành lần đầu tiên dưới thời Æthelstan vào năm 927 và được thiết lập dứt khoát sau các xung đột do Eadred tiến hành vào năm 953. Một làn sóng tấn công mới từ Scandinavia bắt đầu vào cuối thế kỷ X kết thúc khi Quốc vương Đan Mạch Sweyn Forkbeard chinh phục vương quốc thống nhất này vào năm 1013, con trai của ông là Cnut cũng đạt được thành tựu này vào năm 1016, biến Anh trở thành trung tâm của Đế quốc Biển Bắc đoản mệnh, bao gồm cả Đan Mạch và Na Uy. Tuy nhiên, triều đại bản địa phục hồi khi Edward Xưng tội đăng cơ vào năm 1042.

    Tranh chấp về quyền kế vị Edward khiến người Norman chinh phục Anh vào năm 1066, đội quân này dưới quyền lãnh đạo của Công tước William xứ Normandy.[19] Người Norman có nguồn gốc từ Scandinavia và định cư tại Normandy (nay thuộc miền bắc Pháp) vào cuối thế kỷ IX và đầu thế kỷ X.[20] Cuộc chinh phục này khiến giới tinh hoa Anh gần như bị tước hoàn toàn quyền chiếm hữu, thay thế họ là một tầng lớp quý tộc mới nói tiếng Pháp, phát âm của họ có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến tiếng Anh.[21]

    Sau đó, Nhà Plantagenet từ Anjou kế thừa vương vị Anh dưới thời Henry II, đưa Anh vào Đế quốc Angevin đang chớm nở gồm cả các thái ấp của gia tộc được thừa kế tại Pháp như Aquitaine.[22] Gia tộc này cai trị Anh trong ba thế kỷ, một số quân chủ được chú ý là Richard I, Edward I, Edward III và Henry V.[22] Trong giai đoạn này diễn ra một số biến đổi về mậu dịch và tư pháp, như hiến chương Magna Carta được sử dụng để hạn chế quyền lực của quân chủ và bảo hộ các đặc quyền của người tự do. Đan sĩ Công giáo phát triển mạnh, giúp sản sinh các triết gia, các trường đại học Oxford và Cambridge được thành lập và được quân chủ bảo trợ. Thân vương quốc Wales trở thành một thái ấp của Nhà Plantagenet vào thế kỷ XIII[23] và Lãnh địa Ireland được Giáo hoàng trao cho quân chủ của Anh.

    Trong thế kỷ XIV, Nhà Plantagenet và Nhà Valois đều yêu sách là bên kế thừa hợp pháp của Nhà Capet cùng với vương vị Pháp; hai thế lực này xung đột trong Chiến tranh Trăm Năm.[24] Dịch bệnh Cái chết Đen bắt đầu tấn công Anh bắt đầu vào năm 1348, kết cục là một nửa cư dân Anh thiệt mạng.[25][26] Từ năm 1453 đến năm 1487, nội chiến diễn ra giữa hai nhánh của vương tộc Plantagenet là nhánh York và nhánh Lancaster, cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh Hoa Hồng.[27] Kết cục là nhánh York mất hoàn toàn vương vị về tay một gia tộc quý tộc Wales là Tudor, đây là một dòng họ liên hệ với nhánh Lancaster và do Henry Tudor đứng đầu, lực lượng của ông gồm các lính đánh thuê Wales và Breton, họ giành thắng lợi trong trận Bosworth Field và trong trận này Quốc vương Richard III của nhánh York bị giết.[28]

    Sơ kỳ cận đại Painting of large bearded man with fur trimmed cloak, wearing a hat. Quốc vương Henry VIII trở thành thủ lĩnh tối cao của Giáo hội Anh

    Trong giai đoạn Tudor, Phục Hưng lan đến Anh thông qua các triều thần người Ý, họ giới thiệu lại tranh luận nghệ thuật, giáo dục và học thuật từ thời cổ đại.[29] Anh bắt đầu phát triển các kỹ năng hải quân, và việc thám hiểm phía tây được tăng cường.[30][31]

    Henry VIII đoạn tuyệt hiệp thông với Giáo hội Công giáo do các vấn đề liên quan đến việc ông ly hôn, theo các đạo luật vào năm 1534 ông trở thành thủ lĩnh quân chủ của Giáo hội Anh. Khác với phần lớn châu Âu Tin Lành, nguồn gốc phân chia tôn giáo tại Anh mang tính chính trị nhiều hơn là thần học.[32] Ông cũng hợp nhất về pháp lý lãnh thổ Wales của tổ tiên vào Vương quốc Anh theo các đạo luật năm 1535–1542. Diễn ra xung đột tôn giáo nội bộ trong thời kỳ trị vì của các con gái Henry là Mary I và Elizabeth I. Mary I đưa Anh quay trở lại Công giáo La Mã còn Elizabeth I lại khẳng định mạnh mẽ quyền tối cao của Anh giáo.

    Nhằm cạnh tranh với Tây Ban Nha, Anh có thuộc địa đầu tiên tại châu Mỹ vào năm 1585 khi nhà thám hiểm Walter Raleigh lập thuộc địa Roanoke tại vùng đất nay là bang Virginia của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thuộc địa này là một thất bại.[33] Công ty Đông Ấn Anh cạnh tranh với người Hà Lan và người Pháp tại phương Đông. Năm 1588, trong thời kỳ Elizabeth I, một hạm đội Anh dưới quyền Francis Drake đánh bại một hạm đội Tây Ban Nha đến xâm chiếm. Cấu trúc chính trị trên đảo Anh thay đổi vào năm 1603 khi Quốc vương Scotland James VI kế thừa vương vị Anh với hiệu là James I, lập ra một liên minh cá nhân giữa hai vương quốc từng kình địch trong thời gian dài về lợi ích.[34][35]

     Anh khôi phục chế độ quân chủ dưới quyền Quốc vương Charles II và trải qua hoà bình sau Nội chiến Anh.

    Do mâu thuẫn về lập trường chính trị, tôn giáo và xã hội, Nội chiến Anh bùng phát giữa những người ủng hộ Quốc hội và những người ủng hộ Quốc vương Charles I. Đây là một phần đan xen của Chiến tranh Ba Vương quốc với quy mô rộng hơn khi bao gồm cả Scotland và Ireland. Phái Quốc hội giành chiến thắng, Charles I bị hành quyết và vương quốc bị thay thế bằng thịnh vượng chung. Thủ lĩnh của phái Quốc hội là Oliver Cromwell tự xưng là Bảo Hộ Công vào năm 1653; một giai đoạn thống trị cá nhân diễn ra sau đó.[36] Sau khi Cromwell mất và con trai ông là Richard từ chức Bảo Hộ Công, Charles II được mời trở lại làm quân chủ vào năm 1660. Sau Cách mạng Vinh Quang năm 1688, Dự luật Quyền lợi 1689 xác định rằng Quốc vương và Quốc hội cùng cai trị, song thực quyền thuộc về Quốc hội. Theo các quy chế được đưa ra, pháp luật chỉ có thể do Quốc hội lập ra và Quốc vương không thể đình chỉ, Quốc vương cũng không thể áp thuế hoặc tổ chức một đội quân nếu không được Quốc hội phê chuẩn trước.[37]

    Năm 1666, Luân Đôn xảy ra hoả hoạn lớn, thành phố bị tàn phá song được tái thiết một thời gian ngắn sau đó[38] gồm nhiều toà nhà quan trọng do Christopher Wren thiết kế. Trong Quốc hội Anh, hai phái Tory và Whig xuất hiện. Phái Tory ban đầu ủng hộ Quốc vương James II theo Công giáo, song trong cách mạng năm 1688 một số người trong phái Tory cùng với phái Whig mời một thân vương người Hà Lan là William xứ Orange sang đánh bại James II và cuối cùng trở thành William III của Anh. Một số người Anh theo phong trào Jacobite và tiếp tục ủng hộ James II và các con trai của ông, đặc biệt là tại miền bắc. Sau khi các quốc hội của Anh và Scotland đồng thuận,[39] hai quốc gia tham gia liên hiệp chính trị, lập ra Vương quốc Anh mới vào năm 1707.[34] Nhằm dàn xếp liên hiệp, các thể chế như luật pháp và giáo hội quốc gia của hai bên vẫn tách biệt.[40]

    Hậu kỳ cận đại và đương đại

    Vương quốc Anh liên hiệp được thành lập, sản phẩm của Hội Hoàng gia và các sáng kiến khác của Anh kết hợp với Khai sáng Scotland để tạo nên các phát kiến trong khoa học và kỹ thuật. Anh phát triển cực lớn về mậu dịch hải ngoại với bảo hộ từ Hải quân Hoàng gia, mở đường để hình thành Đế quốc Anh. Trong nước, nó thúc đẩy cách mạng công nghiệp, là một giai đoạn biến đổi sâu sắc về kinh tế-xã hội và văn hoá tại Anh, kết quả là công nghiệp hoá nông nghiệp, sản xuất, kỹ thuật và khai mỏ, cũng như các hệ thống đường bộ, đường sắt và đường thủy mới và tiên phong nhằm thuận tiện để mở rộng phát triển.[41] Kênh Bridgewater thuộc Tây Bắc Anh được khánh thành vào năm 1761, báo hiệu kỷ nguyên kênh đào tại Anh.[42][43] Năm 1825, tuyến đường sắt hành khách dùng đầu máy kéo hơi nước cố định đầu tiên trên thế giới được mở cửa cho công chúng, đó là đường sắt Stockton và Darlington.[42]

     Các nhà máy bông sợi tại Manchester vào khoảng năm 1820, đây là "thành phố công nghiệp đầu tiên" trên thế giới.[44]

    Trong cách mạng công nghiệp, nhiều người lao động chuyển từ nông thôn đến các khu vực công nghiệp đô thị mới để làm việc trong các nhà máy, chẳng hạn như Manchester và Birmingham, hai thành phố này từng lần lượt được gán là "thành phố kho hàng" và "công xưởng của thế giới".[45][46] Anh vẫn tương đối ổn định trong suốt Cách mạng Pháp; William Pitt Trẻ là thủ tướng của Anh trong giai đoạn trị vì của George III. Trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon, Napoléon lập kế hoạch xâm chiếm Anh từ phía đông nam, Tuy nhiên, kế hoạch thất bại khi quân của Napoleón bị người Anh đánh bại trên biển dưới quyền Horatio Nelson và trên bộ dưới quyền Arthur Wellesley. Các cuộc chiến Napoléon khích lệ khái niệm về tính Anh Quốc và dân tộc Anh Quốc thống nhất, chia sẻ với người Scots và người Wales.[47]

     Bia kỷ niệm các thành viên của Quân đội Anh thiệt mạng trong hai thế chiến.

    Luân Đôn trở thành khu vực đô thị lớn nhất và đông dân nhất thế giới trong thời kỳ Victoria, và mậu dịch trong Đế quốc Anh cũng như địa vị của quân đội và hải quân Anh có được thanh thế.[48] Kích động chính trị từ các phần tử cấp tiến như phong trào Hiến chương và phong trào phụ nữ yêu cầu quyền bầu cử thúc đẩy các cải cách tư pháp và phổ thông đầu phiếu.[49] Biến đổi quyền lực tại Đông-Trung Âu dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ nhất; hàng trăm nghìn binh sĩ Anh thiệt mạng khi giao tranh bên phe Đồng Minh.[50] Hai thập niên sau, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland lại ở bên phe Đồng Minh. Đến khi kết thúc Chiến tranh kỳ quặc, Winston Churchill trở thành thủ tướng thời chiến. Phát triển về công nghệ chiến tranh khiến nhiều thành thị bị tàn phá do Không quân Đức oanh tạc. Sau chiến tranh, Đế quốc Anh trải qua phi thực dân hoá nhanh chóng, đồng thời có các phát kiến nhanh chóng về kỹ thuật; ô tô trở thành phương tiện giao thông chủ yếu và phát triển của Frank Whittle về động cơ phản lực khiến di chuyển bằng hàng không phổ biến hơn.[51] Mô hình cư trú thay đổi tại Anh do ô tô cá nhân, thiết lập Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS) vào năm 1948. NHS của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland cung cấp chăm sóc y tế công cộng miễn phí cho toàn bộ cư dân thường trú tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland tại điểm cần thiết, kinh phí lấy từ thuế nói chung. Tổng hợp, các thay đổi này thúc đẩy cải cách về chính quyền địa phương tại Anh vào giữa thế kỷ XX.[52][53]

    Từ thế kỷ XX, có phong trào di dân đáng kể đến Anh, hầu hết là từ các phần còn lại của quần đảo Anh, song cũng từ các quốc gia trong Thịnh vượng chung mà đặc biệt là tiểu lục địa Ấn Độ.[54] Kể từ thập niên 1970, có một bước chuyển đổi lớn khỏi lĩnh vực chế tạo và gia tăng tầm quan trọng vào ngành dịch vụ.[55] Với tư cách là bộ phận của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, khu vực gia nhập sáng kiến thị trường chung mang tên Cộng đồng Kinh tế châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu. Kể từ cuối thế kỷ XX, chính quyền Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland chuyển hướng sang phân quyền quản trị tại Scotland, Wales và Bắc Ireland.[56] Anh và Wales tiếp tục là một khu vực quyền hạn pháp lý tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.[57] Phân quyền kích thích việc nhấn mạnh nhiều vào bản sắc và chủ nghĩa ái quốc đặc trưng Anh hơn.[58][59] Không có chính phủ Anh được phân quyền, song một nỗ lực nhằm lập ra một hệ thống tương tự trên cơ sở phân vùng bị cử tri bác bỏ thông qua trưng cầu dân ý.[60]

    ^ “500,000 BC – Boxgrove”. Current Archaeology. Current Publishing. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010. ^ “Palaeolithic Archaeology Teaching Resource Box” (PDF). Palaeolithic Rivers of South-West Britain Project(2006). Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010. ^ “Chalk east”. A Geo East Project. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010. ^ Oppenheimer 2006, tr. 173. ^ “Tertiary Rivers: Tectonic and structural background”. University of Cambridge. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2009. ^ “Function and significance of Bell Beaker pottery according to data from residue analyses”. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2010. ^ Reid, Struan (1994). Inventions and Trade. P.8. ISBN 978-0-921921-30-1. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010. ^ Burke, Jason (ngày 2 tháng 12 năm 2000). “Dig uncovers Boudicca's brutal streak”. The Observer. London. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl= và |archive-url= (trợ giúp) ^ “Cornelius Tacitus, The Annals”. Alfred John Church, William Jackson Brudribh, Ed. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2010. ^ Bedoyere, Guy. “Architecture in Roman Britain”. Heritage Key. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010. ^ Philip, Robert (1860). The History of Progress in Great Britain, Volume 2. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010. ^ Bob Rees; Paul Shute; Nigel Kelly (ngày 9 tháng 1 năm 2003). Medicine through time. Heinemann. ISBN 978-0-435-30841-4. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2010. ^ Rankov 1994, tr. 16. ^ Wright 2008, tr. 143. ^ a b James, Edward. “Overview: Anglo-Saxons, 410 to 800”. BBC. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010. ^ “The Christian Tradition”. PicturesofEngland.com. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2009. ^ Kirby 2000, tr. 4 ^ Lyon 1960, tr. 23. ^ “Overview: The Normans, 1066–1154”. BBC. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010. ^ Crouch 2006, tr. 2–4 ^ “Norman invasion word impact study”. BBC News. ngày 20 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010. ^ a b Bartlett 1999, tr. 124. ^ “Edward I (r. 1272–1307)”. Royal.gov.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2009. ^ Fowler 1967, tr. 208. ^ Ziegler 2003, tr. 230. ^ Goldberg 1996, tr. 4. ^ Crofton 2007, tr. 111. ^ “Richard III (r. 1483–1485)”. Royal.gov.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2009. ^ Hay, Denys (1988). Renaissance essays. tr. 65. ISBN 978-0-907628-96-5. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010. ^ “Royal Navy History, Tudor Period and the Birth of a Regular Navy”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2010. ^ Smith, Goldwin. England Under the Tudors. tr. 176. ISBN 978-1-60620-939-4. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010. ^ Scruton 1982, tr. 470. ^ Ordahl, Karen (ngày 25 tháng 2 năm 2007). Roanak:the abandoned colony. Rowman & Littlefield publishers Inc. ISBN 978-0-7425-5263-0. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2010. ^ a b Colley 1992, tr. 12. ^ “Making the Act of Union”. Parliament.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2009. ^ “Oliver Cromwell (English statesman)”. Encyclopædia Britannica. britannica.com. 2009. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2009. ^ Philip J. Adler; Randall L. Pouwels (ngày 27 tháng 11 năm 2007). World Civilization. tr. 340. ISBN 978-0-495-50262-3. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2010. ^ “London's Burning: The Great Fire”. BBC News. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2009. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên unionwithscotland ^ Gallagher 2006, tr. 14. ^ Hudson, Pat. “The Workshop of the World”. BBC. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010. ^ a b Office for National Statistics 2000, tr. 5 ^ McNeil & Nevell 2000, tr. 4. ^ “Manchester – the first industrial city”. Entry on Sciencemuseum website. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2012. ^ McNeil & Nevell 2000, tr. 9. ^ Birmingham City Council. “Heritage”. visitbirmingham.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009. ^ Colley 1992, tr. 1. ^ Haggard, Robert F. (2001). The persistence of Victorian liberalism:The Politics of Social Reform in Britain, 1870–1900. tr. 13. ISBN 978-0-313-31305-9. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010. ^ Crawford, Elizabeth. “Women: From Abolition to the Vote”. BBC. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2010. ^ Cox 1970, tr. 180 ^ Golley, John (ngày 10 tháng 8 năm 1996). “Obituaries: Air Commodore Sir Frank Whittle”. The Independent. London. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010. ^ Clark 1973, tr. 1. ^ Wilson & Game 2002, tr. 55. ^ Gallagher 2006, tr. 10–11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên thatcher ^ Keating, Michael (ngày 1 tháng 1 năm 1998). “Reforging the Union: Devolution and Constitutional Change in the United Kingdom”. Publius: the Journal of Federalism. 28 (1): 217. doi:10.1093/oxfordjournals.pubjof.a029948. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2009. ^ “The coming of the Tudors and the Act of Union”. BBC Wales. BBC News. 2009. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2009. ^ Kenny, English & Hayton 2008, tr. 3. ^ Ward 2004, tr. 180. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên refreject
    Read less

Phrasebook

Xin chào
Hello
Thế giới
World
Chào thế giới
Hello world
Cảm ơn bạn
Thank you
Tạm biệt
Goodbye
Đúng
Yes
Không
No
Bạn khỏe không?
How are you?
Tốt, cảm ơn bạn
Fine, thank you
cái này giá bao nhiêu?
How much is it?
Số không
Zero
Một
One

Where can you sleep near Anh ?

Booking.com
489.821 visits in total, 9.196 Points of interest, 404 Đích, 72 visits today.