Context of Ai Cập

Ai Cập (tiếng Ả Rập: مِصرMiṣr, tiếng Ả Rập Ai Cập: مَصرMaṣr, tiếng Copt: Ⲭⲏⲙⲓ Khēmi tiếng Anh: Egypt), tên chính thức là nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với bán đảo Sinai thuộc Tây Á. Ai Cập giáp Địa Trung Hải, có biên giới với Dải Gaza và Israel về phía đông bắc, giáp vịnh Aqaba về phía đông, biển Đỏ về phía đông và nam, Sudan về phía nam, và Libya về phía tây. Ngoài ra, Ai Cập có biên giới hàng hải với Jordan và Ả Rập Xê Út qua vịnh Aqaba và biển Đỏ.

Trong số các quốc gia hiện tại, Ai Cập có lịch sử vào hàng lâu đời nhất, là một trong các quốc gia ...Xem thêm

Ai Cập (tiếng Ả Rập: مِصرMiṣr, tiếng Ả Rập Ai Cập: مَصرMaṣr, tiếng Copt: Ⲭⲏⲙⲓ Khēmi tiếng Anh: Egypt), tên chính thức là nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với bán đảo Sinai thuộc Tây Á. Ai Cập giáp Địa Trung Hải, có biên giới với Dải Gaza và Israel về phía đông bắc, giáp vịnh Aqaba về phía đông, biển Đỏ về phía đông và nam, Sudan về phía nam, và Libya về phía tây. Ngoài ra, Ai Cập có biên giới hàng hải với Jordan và Ả Rập Xê Út qua vịnh Aqaba và biển Đỏ.

Trong số các quốc gia hiện tại, Ai Cập có lịch sử vào hàng lâu đời nhất, là một trong các quốc gia đầu tiên trên thế giới vào thiên niên kỷ 10 TCN., và đã trải qua một số bước phát triển sớm nhất về chữ viết, nông nghiệp, đô thị hoá, tôn giáo có tổ chức và chính phủ trung ương. Di sản văn hoá phong phú của Ai Cập là bộ phận của bản sắc dân tộc, từng phải chịu ảnh hưởng mà đôi khi là đồng hoá từ bên ngoài như Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Ả Rập, Ottoman, và châu Âu. Ai Cập từng là một trong các trung tâm ban đầu của Cơ Đốc giáo, song trải qua Hồi giáo hoá trong thế kỷ VII và từ đó duy trì là một quốc gia Hồi giáo, song Cơ Đốc giáo vẫn chiếm một phần đáng kể ở quốc gia này.

Ai Cập có trên 100 triệu dân, là quốc gia đông dân nhất tại Bắc Phi và thế giới Ả Rập, là quốc gia đông dân thứ ba tại châu Phi và thứ 14 trên thế giới. Đại đa số cư dân sống gần bờ sông Nin, trong một khu vực có diện tích khoảng 40.000 km², là nơi duy nhất có đất canh tác. Các khu vực rộng lớn thuộc sa mạc Sahara chiếm hầu hết lãnh thổ Ai Cập, song có cư dân thưa thớt. Khoảng một nửa cư dân Ai Cập sống tại khu vực thành thị, các trung tâm dân cư đông đúc là Đại Cairo, Alexandria và các thành phố lớn khác tại đồng bằng châu thổ sông Nin.

Ai Cập hiện đại được nhận định là một cường quốc khu vực và cường quốc bậc trung, có ảnh hưởng đáng kể về văn hoá, chính trị và quân sự tại Bắc Phi, Trung Đông và thế giới Hồi giáo. Kinh tế Ai Cập nằm vào hàng lớn nhất và đa dạng nhất tại Trung Đông, và theo dự kiến sẽ nằm trong số các nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỷ XXI. Ai Cập là một thành viên của Liên Hợp Quốc, Phong trào không liên kết, Liên đoàn Ả Rập, Liên minh châu Phi, và Tổ chức Hợp tác Hồi giáo.

More about Ai Cập

Basic information
  • Currency Bảng Ai Cập
  • Tên bản địa مصر
  • Calling code +20
  • Internet domain .eg
  • Mains voltage 220V/50Hz
  • Democracy index 2.93
Population, Area & Driving side
  • Population 107476864
  • Diện tích 1010407
  • Driving side right
Lịch sử
  • Lịch sử

    Tồn tại bằng chứng về thuật khắc đá dọc theo thềm sông Nin và tại các ốc đảo sa mạc. Trong thiên niên kỷ 10 TCN, nền văn hoá săn bắn-hái lượm và đánh cá bị thay thế bằng nền văn hoá xay hạt lương thực. Biến đổi khí hậu hoặc chăn thả quá độ vào khoảng năm 8.000 TCN bắt đầu làm khô hạn đất đồng cỏ chăn nuôi của Ai Cập, hình thành sa mạc Sahara. Các bộ lạc ban đầu này di cư đến gần sông Nin, tại đó họ phát triển một nền kinh tế nông nghiệp định cư và xã hội tập trung hơn.[1]

    Đến khoảng năm 6000 TCN, một nền văn hoá đồ đá mới bén rễ tại thung lũng sông Nin.[2] Trong thời kỳ đồ đá mới, một số nền văn hoá tiền triều đại phát triển độc lập tại Thượng và Hạ Ai Cập. Văn hoá Badari và kế thừa nó là văn hoá Naqada thường được cho là các tiền thân của Ai Cập thời các vương triều. Di chỉ Hạ Ai Cập có niên đại sớm nhất được biết đến là Merimda, có niên đại trước văn hoá Badari khoảng bảy trăm năm. Các cộng đồng Hạ Ai Cập đương thời cùng tồn tại với các đối tác ở phía nam trong hơn hai nghìn năm, duy trì khác biệt về văn hoá song vẫn thường xuyên giao lưu thông qua mậu dịch. Bằng chứng có niên đại sớm nhất được biết đến về các bản khắc tượng hình Ai Cập xuất hiện trên các bình gốm Naqada III thuộc giai đoạn tiền triều đại, có niên đại khoảng 3200 TCN.[3]

    ...Xem thêm
    Lịch sử

    Tồn tại bằng chứng về thuật khắc đá dọc theo thềm sông Nin và tại các ốc đảo sa mạc. Trong thiên niên kỷ 10 TCN, nền văn hoá săn bắn-hái lượm và đánh cá bị thay thế bằng nền văn hoá xay hạt lương thực. Biến đổi khí hậu hoặc chăn thả quá độ vào khoảng năm 8.000 TCN bắt đầu làm khô hạn đất đồng cỏ chăn nuôi của Ai Cập, hình thành sa mạc Sahara. Các bộ lạc ban đầu này di cư đến gần sông Nin, tại đó họ phát triển một nền kinh tế nông nghiệp định cư và xã hội tập trung hơn.[1]

    Đến khoảng năm 6000 TCN, một nền văn hoá đồ đá mới bén rễ tại thung lũng sông Nin.[2] Trong thời kỳ đồ đá mới, một số nền văn hoá tiền triều đại phát triển độc lập tại Thượng và Hạ Ai Cập. Văn hoá Badari và kế thừa nó là văn hoá Naqada thường được cho là các tiền thân của Ai Cập thời các vương triều. Di chỉ Hạ Ai Cập có niên đại sớm nhất được biết đến là Merimda, có niên đại trước văn hoá Badari khoảng bảy trăm năm. Các cộng đồng Hạ Ai Cập đương thời cùng tồn tại với các đối tác ở phía nam trong hơn hai nghìn năm, duy trì khác biệt về văn hoá song vẫn thường xuyên giao lưu thông qua mậu dịch. Bằng chứng có niên đại sớm nhất được biết đến về các bản khắc tượng hình Ai Cập xuất hiện trên các bình gốm Naqada III thuộc giai đoạn tiền triều đại, có niên đại khoảng 3200 TCN.[3]

     Khu lăng mộ Giza là kỳ quan cổ đại có niên đại sớm nhất, và là kỳ quan cổ đại duy nhất còn tồn tại.

    Một vương quốc thống nhất được Quốc vương Menes thành lập vào khoảng năm 3150 TCN, khởi đầu cho một loạt triều đại cai trị Ai Cập trong ba thiên niên kỷ sau đó. Văn hoá Ai Cập phồn thịnh trong giai đoạn kéo dài này và duy trì đặc trưng Ai Cập trong tôn giáo, nghệ thuật, ngôn ngữ và phong tục. Sau hai triều đại đầu tiên của Ai Cập thống nhất là giai đoạn Cổ vương quốc khoảng 2700–2200 TCN, trong giai đoạn này có nhiều kim tự tháp được xây dựng, đáng chú ý nhất là các kim tự tháp Giza.

    Giai đoạn Chuyển tiếp lần thứ nhất là một thời gian chấn động chính trị trong khoảng 150 năm.[4] Tuy nhiên, việc các trận lụt của sông Nin mạnh hơn và chính phủ ổn định hoá giúp đem lại phồn thịnh mới cho quốc gia trong giai đoạn Trung vương quốc từ khoảng 2040 TCN, đạt đến đỉnh cao dưới thời trị vì của Pharaon Amenemhat III. Một giai đoạn bất hoà thứ nhì báo hiệu xuất hiện triều đại gốc ngoại quốc đầu tiên của Ai Cập, đó là người Hyksos gốc Tây Á. Những kẻ xâm lược Hyksos chiếm phần lớn Hạ Ai Cập vào khoảng 1650 TCN và định đô tại Avaris. Một đội quân Thượng Ai Cập dưới quyền Ahmose I đẩy lui người Hyksos, và lập ra vương triều thứ mười tám và dời đô từ Memphis đến Thebes.

    Giai đoạn Tân vương quốc khoảng 1550–1070 TCN bắt đầu từ vương triều thứ mười tám, trong giai đoạn này Ai Cập vươn lên thành một cường quốc quốc tế, bành trướng đến cực độ thành một đế quốc có lãnh thổ xa về phía nam đến Tombos tại Nubia, và bao gồm bộ phận của Levant tại phía đông. Giai đoạn này có một số vị Pharaon nổi tiếng như Hatshepsut, Thutmose III, Akhenaten cùng vợ là Nefertiti, Tutankhamun và Ramesses II. Biểu hiện được chứng thực lịch sử đầu tiên về thuyết độc thần là từ giai đoạn này, với cải cách Aten. Tiếp xúc thường xuyên với các quốc gia khác giúp đưa các tư tưởng mới đến Ai Cập. Sau đó, Ai Cập lần lượt bị người Libya, người Nubia, và người Assyria xâm chiếm và chinh phục, song người Ai Cập bản địa cuối cùng đẩy lui được họ và giành lại quyền kiểm soát quốc gia.[5]

    Năm 525 TCN, quân Achaemenes Ba Tư dưới quyền Quốc vương Cambyses II bắt đầu tiến hành chinh phục Ai Cập, cuối cùng bắt được Pharaon Psamtik III. Cambyses II lấy tước hiệu là pharaoh, song cai trì Ai Cập từ quê hương mình tại Ba Tư, cho một satrap (thống đốc) quản lý Ai Cập. Giai đoạn vương triều thứ 27 kéo dài từ năm 525 TCN đến năm 402 TCN do Ba Tư cai trị hoàn toàn. Một vài cuộc khởi nghĩa thành công tạm thời chống Ba Tư diễn ra trong thế kỷ V TCN, song chưa từng lật đổ lâu dài người Ba Tư.[6] Vương triều thứ 30 là vương triều bản địa cuối cùng trong kỷ nguyên pharaon. Họ thất thủ trước người Ba Tư vào năm 343 TCN sau khi Nectanebo II chiến bại. Tuy nhiên vương triều thứ 31 không kéo dài do người Ba Tư bị Alexandros Đại đế lật đổ vài thập niên sau đó. Một tướng quân người Hy Lạp Macedonia của Alexandros là Ptolemaios I Soter lập ra vương triều Ptolemaios.

    Ai Cập Ptolemaios và La Mã  Vương hậu Cleopatra VII cùng con trai của bà với Julius Caesar là Caesarion, trong Đền Dendera.

    Vương quốc Ptolemaios là một nhà nước Hy Lạp hoá hùng mạnh, kéo dài đến miền nam Syria ngày nay tại phía đông, đến Cyrene tại phía tây, và phía nam đến biên giới với Nubia. Alexandria trở thành thành phố thủ đô và một trung tâm của văn hoá và mậu dịch Hy Lạp. Để được dân chúng Ai Cập bản địa công nhận, các quân chủ gốc Hy Lạp nhìn nhận bản thân là người kế thừa của các pharaon. Các quân chủ Ptolemaios cuối cùng tuân theo truyền thống Ai Cập, phác hoạ bản thân trên các công trình kỷ niệm công cộng theo phong cách và trang phục Ai Cập, và tham gia sinh hoạt tôn giáo Ai Cập.[7][8]

    Vị quân chủ cuối cùng của dòng Ptolemaios là Cleopatra VII, bà tự tử cùng tình nhân của mình là Mark Antony sau khi Octavianus chiếm được Alexandria và đội quân đánh thuê của bà chạy trốn. Vương triều Ptolemaios phải đối diện với các cuộc khởi nghĩa của người Ai Cập bản địa, nguyên nhân thường là vì chính thể này không được lòng dân và tham dự nhiều cuộc chiến bên ngoài lẫn bên trong khiến quốc lực suy thoái, kết quả bị La Mã sáp nhập. Tuy thế, văn hoá Hy Lạp hoá tiếp tục thịnh vượng tại Ai Cập ngay cả sau khi người Hồi giáo chinh phục nơi đây.

    Thánh sử Mark đưa Cơ Đốc giáo đến Ai Cập vào thế kỷ I.[9] Thời gian cai trị của Diocletianus (từ 284 đến 305) đánh dấu chuyển tiếp từ thời kỳ La Mã sang Đông La Mã (Byzantine) tại Ai Cập, khi một lượng lớn người Cơ Đốc giáo Ai Cập bị ngược đãi. Tân Ước được dịch sang tiếng Ai Cập. Sau Công đồng Chalcedon vào năm 451, một giáo hội Copt Ai Cập riêng biệt được thành lập vững chắc.[10]

    Trung đại

    Đông La Mã giành lại quyền kiểm soát Ai Cập sau một cuộc xâm chiếm ngắn ngủi của Sassanid Ba Tư vào đầu thế kỷ VII, người Ba Tư đặt Ai Cập làm một tỉnh được 10 năm (619–629). Đến năm 639–42, Ai Cập bị người Ả Rập Hồi giáo xâm chiếm và chinh phục. Khi người Ả Rập đánh bại quân đội của Đông La Mã tại Ai Cập, họ mang theo Hồi giáo Sunni đến đây. Vào lúc ban đầu trong giai đoạn này, người Ai Cập bắt đầu hoà trộn đức tin mới với các niềm tin và hành lễ bản địa, dẫn đến nhiều trật tự Sufi phát triển cho đến nay.[9] Những lễ nghi này trước đó đã tồn tại qua thời kỳ Cơ Đốc giáo Copt.[11]

    Các đế quốc Hồi giáo bổ nhiệm những người Hồi giáo cai trị Ai Cập trong sáu trăm năm sau đó, Cairo từng là thủ đô của Đế quốc Hồi giáo Fatima. Đến khi Vương triều Ayyub của người Kurd kết thúc, một tầng lớp quân sự người Turk-Circassia gọi là Mamluk nắm quyền kiểm soát Ai Cập vào khoảng năm 1250. Đến cuối thế kỷ XIII, Ai Cập có liên hệ với khu vực biển Đỏ, Ấn Độ, Mã Lai và Đông Ấn.[12] Cái chết Đen vào giữa thế kỷ XIV khiến cho khoảng 40% dân số Ai Cập thiệt mạng.[13]

    Thời kỳ Ottoman (1517–1867)

    Người Thổ Ottoman chinh phục Ai Cập vào năm 1517, lãnh thổ này sau đó trở thành một tỉnh của Đế quốc Ottoman. Quân sự hoá mang tính phòng thủ đã tàn phá các thể chế xã hội dân sự và kinh tế của Ai Cập.[12] Hệ thống kinh tế suy yếu kết hợp với tác động của dịch bệnh khiến Ai Cập dễ bị ngoại bang xâm chiếm. Các thương nhân Bồ Đào Nha tiếp quản ngành mậu dịch.[12] Từ năm 1687 đến năm 1731, Ai Cập trải qua sáu nạn đói.[14] Nạn đói năm 1784 khiến cho khoảng một phần sáu dân số thiệt mạng.[15]

    Ai Cập luôn là một tỉnh khó quản lý đối với Ottoman, một phần là do tầng lớp Mamluk duy trì được quyền lực và ảnh hưởng. Ai Cập duy trì là bộ phận bán tự trị dưới quyền tầng lớp Mamluk cho đến khi quân Pháp của Napoléon Bonaparte tiến hành xâm chiếm vào năm 1798. Sau khi người Pháp bị người Anh đánh bại, khoảng trống quyền lực xuất hiện tại Ai Cập, và một cuộc đấu tranh quyền lực ba bên bùng phát giữa người Thổ Ottoman, người Mamluk Ai Cập, và các thương gia Albania phục vụ cho Ottoman.

     Muhammad Ali là người sáng lập Vương triều Muhammad Ali và là Khedive đầu tiên của Ai Cập và Sudan.

    Đến năm 1805, một chỉ huy quân sự người Albania của quân đội Ottoman tại Ai Cập là Muhammad Ali Pasha đoạt được quyền lực. Ông mang tước hiệu phó vương của Ai Cập, song chỉ lệ thuộc Ottoman trên danh nghĩa. Muhammad Ali tàn sát tầng lớp Mamluk và lập ra một triều đại cai trị Ai Cập cho đến cách mạng năm 1952.

    Muhammad Ali sáp nhập miền bắc Sudan (1820–1824), Syria (1833), và bộ phận của bán đảo Ả Rập và Tiểu Á; tuy nhiên đến năm 1841 các cường quốc châu Âu vì lo sợ ông sẽ lật đổ chính Đế quốc Ottoman nên buộc ông trao trả hầu hết lãnh thổ chinh phục được cho Ottoman. Tham vọng quân sự của ông đòi hỏi ông phải hiện đại hoá quốc gia: Ông cho kiến thiết công nghiệp, một hệ thống kênh tưới tiêu và giao thông, cải cách dịch vụ công.[16] Ông dựng nên một nhà nước quân sự với khoảng bốn phần trăm dân chúng phục vụ quân đội, khiến Ai Cập có một vị thế mạnh mẽ trong Ottoman.[17]

    Kế vị Muhammad Ali lần lượt là Ibrahim (tháng 9 năm 1848), rồi đến cháu nội Abbas I (tháng 11 năm 1848), rồi đến Said (năm 1854), và Isma'il (năm 1863) là người khuyến khích khoa học và nông nghiệp cũng như cấm chỉ chế độ nô lệ tại Ai Cập.[17]

    Châu Âu xâm phạm

    Ai Cập dưới thời Vương triều Muhammad Ali trên danh nghĩa là một tỉnh của Ottoman, rồi vị thế của một nhà nước chư hầu tự trị từ năm 1867 đến năm 1914. Ai Cập hợp tác với Pháp xây dựng Kênh đào Suez, công trình hoàn thành vào năm 1869. Việc xây dựng công trình này dẫn đến khoản nợ khổng lồ từ các ngân hàng châu Âu, và khiến quần chúng bất mãn do đặt ra sưu thuế nặng nề. Năm 1875, Ismail buộc phải bán cổ phần của Ai Cập trong kênh đào cho chính phủ Anh. Trong vòng ba năm, điều này dẫn đến các người quản lý kênh đào người Anh và Pháp có vị trí trong nội các Ai Cập, và nắm được thực quyền trong chính phủ do sau lưng họ có quyền lực tài chính của những người giữ trái phiếu.[18] Các yếu tố khác như dịch bệnh, lũ lụt, và chiến tranh khiến kinh tế suy sụp và càng làm tăng độ phụ thuộc của Ai Cập vào nợ nước ngoài.[19]

     Các nữ giới theo chủ nghĩa dân tộc tuần hành tại Cairo, 1919

    Dân chúng địa phương bất mãn với Ismail và với việc châu Âu xâm phạm, kết quả là hình thành các tổ chức dân tộc chủ nghĩa đầu tiên vào năm 1879, trong đó Ahmad Urabi là một nhân vật nổi bật. Lo ngại cho quyền kiểm soát của mình, Anh và Pháp can thiệp quân sự, oanh tạc Alexandria và đánh tan quân đội Ai Cập trong trận Tel El Kebir năm 1882.[20] Họ đưa con trai của Ismail là Tewfik làm bù nhìn của một lãnh thổ do Anh bảo hộ trên thực tế.[21]

    Ai Cập duy trì là bộ phận trên pháp lý của Ottoman cho đến năm 1914,[22] khi nơi đây trở thành một lãnh thổ thuộc Anh nhằm phản ứng trước quyết định của Thanh niên Thổ tại Ottoman về việc tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất bên phái Liên minh Trung tâm. Tước hiệu của nguyên thủ quốc gia từ khedive trở thành sultan nhằm cự tuyệt vết tích bá chủ của sultan Ottoman. Abbas II bị phế truất, thay thế là người chú Hussein Kamel.[23]

    Sau Thế Chiến, Saad Zaghlul và Đảng Wafd lãnh đạo phong trào dân tộc chủ nghĩa Ai Cập giành đa số ghế trong cơ quan lập pháp địa phương. Người Anh cho lưu đày Zaghlul và các cộng sự sang Malta vào tháng 3 năm 1919, khiến bùng phát cuộc khởi nghĩa hiện đại đầu tiên tại Ai Cập. Cuộc khởi nghĩa khiến chính phủ Anh phải đơn phương ban bố tuyên ngôn độc lập Ai Cập vào ngày 22 tháng 2 năm 1922.[24]

    Chính phủ mới soạn thảo và thi hành một hiến pháp vào năm 1923 trên cơ sở hệ thống nghị viện. Saad Zaghlul được bầu làm thủ tướng của Ai Cập vào năm 1924. Đến năm 1936, Hiệp định Anh-Ai Cập được ký kết. Ai Cập liên tục bất ổn do tàn dư ảnh hưởng của Anh và quốc vương gia tăng can thiệp chính trị, dẫn đến giải tán nghị viện trong một cuộc đảo chính quân sự mang tên Cách mạng 1952. Quốc vương Farouk buộc phải thoái vị để cho con là Fuad đăng cơ. Anh hiện diện quân sự tại Ai Cập cho đến năm 1954.[25]

    Cộng hoà (1953–nay)  Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser tại Mansoura, 1960

    Sau Cách mạng 1952, quyền cai trị Ai Cập sang tay thế lực quân sự. Đến ngày 18 tháng 6 năm 1953, nước Cộng hoà Ai Cập được tuyên bố thành lập, Tướng quân Muhammad Naguib là tổng thống đầu tiên. Naguib bị Gamal Abdel Nasser buộc phải từ chức vào năm 1954, Nasser là một nhân vật theo chủ nghĩa liên Ả Rập và là người gây dựng thực tế phong trào 1952. Nasser trở thành tổng thống vào tháng 6 năm 1956. Sau khi quân Anh hoàn thành triệt thoái khỏi Khu vực Kênh đào Suez, Nasser cho quốc hữu hoá kênh đào này vào ngày 26 tháng 7 năm 1956, thúc đẩy Khủng hoảng Kênh đào Suez. Năm 1958, Ai Cập và Syria hình thành Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, liên minh này kết thúc vào năm 1961 khi Syria ly khai. Trong hầu hết thời gian tồn tại, Cộng hoà Ả Rập Thống nhất còn tham gia một bang liên lỏng lẻo với Bắc Yemen trong Hợp chúng quốc Ả Rập. Năm 1959, Chính phủ Toàn Palestine trên Dải Gaza, một nhà nước lệ thuộc Ai Cập, được sáp nhập vào Cộng hoà Ả Rập Thống nhất với lý do liên minh Ả Rập.

    Trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, Israel tấn công Ai Cập, chiếm đóng bán đảo Sinai và Dải Gaza mà Ai Cập chiếm giữ từ năm 1948. Trong chiến tranh năm 1967, luật tình trạng khẩn cấp được ban hành và có hiệu lực cho đến năm 2012, ngoại trừ 18 tháng vào năm 1980/81.[26]

    Trong thời kỳ Nasser nắm quyền diễn ra cải cách và phân phối ruộng đất, phát triển mạnh mẽ trong giáo dục đại học, và chính phủ ủng hộ các ngành công nghiệp quốc gia. Trong thập niên 1960, kinh tế Ai Cập đi từ chậm chạp đến bờ vực sụp đổ, xã hội trở nên ít tự do hơn, và uy tín của Nasser suy giảm đáng kể.[27]

    Năm 1970, Tổng thống Nasser từ trần và người kế nhiệm là Anwar Sadat, ông chuyển Ai Cập từ thân Liên Xô sang thân Hoa Kỳ. Ông phát động chính sách cải cách kinh tế Infitah, trong khi kiềm chế thế lực phản đối từ tôn giáo và thế tục. Năm 1973, Ai Cập và Syria phát động Chiến tranh Tháng 10, bất ngờ tấn công Israel nhằm giành lại bán đảo Sinai. Sau đó, Ai Cập lấy lại Sinai để đổi lấy hoà bình với Israel vào năm 1979.[28] Sự kiện gây tranh luận rất lớn trong thế giới Ả Rập, khiến Ai Cập bị trục xuất khỏi Liên đoàn Ả Rập.[29] Năm 1975, Sadat thay đổi các chính sách kinh tế của Nasser và tìm cách giảm các quy định của chính phủ và khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua chương trình Infitah. Chính sách này có các khích lệ như giảm thuế và thuế quan nhập khẩu, giúp thu hút một số nhà đầu tư song chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực ít mạo hiểm và sinh lợi như du lịch và xây dựng, khiến ngành công nghiệp non trẻ của Ai Cập bị bỏ rơi.[30] Sadat bị một phần tử Hồi giáo cực đoan ám sát vào năm 1981.

    Hosni Mubarak lên nắm quyền sau một cuộc trưng cầu dân ý, trong đó ông là ứng cử viên duy nhất.[31] Hosni Mubarak tái khẳng định quan hệ với Israel song xoa dịu căng thẳng với các láng giềng Ả Rập. Về đối nội, Mubarak đối diện với các vấn đề nghiêm trọng. Mặc dù sản lượng nông nghiệp và công nghiệp gia tăng, song kinh tế không giữ được nhịp độ phát triển do bùng nổ dân số, trong khi nghèo đói và thất nghiệp khiến các gia đình nông thôn đổ xô lên các thành thị như Cairo. Trong thời kỳ Mubarak cai trị, chính trường Ai Cập do Đảng Dân chủ Quốc gia chi phối. Pháp luật hạn chế quyền tự do lập hội và biểu đạt khi áp đặt các quy định mới và hình phạt khắc nghiệt. Do đó, đến cuối thập niên 1990, chính trị nghị viện gần như không còn ý nghĩa và lộ trình thay thế để biểu đạt chính trị cũng bị tước đi.[32] Trong các thập niên 1980, 1990 và 2000, có nhiều vụ tấn công khủng bố tại Ai Cập và có tính chất nghiêm trọng, bắt đầu nhắm đến mục tiêu là Cơ Đốc giáo Copt, du khách ngoại quốc và quan chức chính phủ.[33]

     Cairo phát triển thành một khu vực đại đô thị có dân số trên 20 triệu người,

    Đến năm 2005, Mubarak tuyên bố cải cách luật bầu cử tổng thống, mở đường cho bầu cử nhiều ứng cử viên lần đầu tiên kể từ năm 1952.[34] Tuy nhiên, luật mới áp đặt hạn chế đối với ứng cử viên, khiến Mubarak dễ dàng tái đắc cử.[35] Thay đổi hiến pháp năm 2007 cấm chỉ các chính đảng sử dụng tôn giáo làm cơ sở cho hoạt động chính trị, cho phép tổng thống quyền giải tán quốc hội và kết thúc giám sát bầu cử của tư pháp.[36]

    Ngày 25 tháng 1 năm 2011, biểu tình đại quy mô bắt đầu nhằm chống lại chính phủ của Mubarak. Đến ngày 11 tháng 2 năm 2011, Mubarak từ chức vào rời Cairo.[37] Quân đội Ai Cập nắm quyền quản lý quốc gia.[38][39] Sau một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp, Ai Cập tổ chức bầu cử nghị viện.[40] Mohamed Morsi trở thành tổng thống dân cử vào ngày 24 tháng 6 năm 2012.[41] Ngày 3 tháng 7 năm 2013, sau một làn sóng bất mãn của quần chúng với tính chuyên quyền quá độ của chính phủ Anh em Hồi giáo dưới quyền Morsi,[42] quân đội phế truất Tổng thống Morsi thông qua đảo chính và lập chính phủ lâm thời.[43]

    Chính phủ lâm thời Ai Cập do quân đội hậu thuẫn sau đó đàn áp Anh em Hồi giáo và các ủng hộ viên của họ, sát hại hàng trăm người biểu tình đường phố vào tháng 8 năm 2013.[44][45] Ngày 18 tháng 1 năm 2014, chính phủ lâm thời thiết lập hiến pháp mới sau một cuộc trưng cầu dân ý[46] Ngày 26 tháng 3 năm 2014, người lãnh đạo Các lực lượng vũ trang Ai Cập là Abdel Fattah el-Sisi từ chức trong quân đội và tuyên bố tranh cử tổng thống.[47] Abdel Fattah el-Sisi chiến thắng với cách biệt lớn,[48] và tuyên thệ nhậm chức tổng thống vào ngày 8 tháng 6 năm 2014. Anh em Hồi giáo và một số nhóm hoạt động tư do và thế tục tẩy chay bỏ phiếu.[49]

    El-Sisi tái đắc cử vào năm 2018, không vấp phải sự phản đối nghiêm trọng nào. Năm 2019, một loạt sửa đổi hiến pháp đã được quốc hội thông qua, nâng cao hơn nữa quyền lực của Tổng thống và quân đội, tăng nhiệm kỳ tổng thống từ 4 năm lên 6 năm và cho phép El-Sisi tranh cử hai nhiệm kỳ khác. Các đề xuất đã được thông qua trong một cuộc trưng cầu dân ý.

    Tranh chấp giữa Ai Cập và Ethiopia về Đập Đại Phục hưng Ethiopia leo thang vào năm 2020. Ai Cập coi con đập là một mối đe dọa hiện hữu, lo ngại rằng con đập sẽ làm giảm lượng nước mà nó nhận được từ sông Nile.

    ^ Midant-Reynes, Béatrix. The Prehistory of Egypt: From the First Egyptians to the First Kings. Oxford: Blackwell Publishers. ^ “The Nile Valley 6000–4000 BC Neolithic”. The British Museum. 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2008. ^ Bard, Kathryn A. Ian Shaw, ed. The Oxford Illustrated History of Ancient Egypt. Oxford: Oxford University Press, 2000. p. 69. ^ “The Fall of the Egyptian Old Kingdom”. BBC. ngày 17 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011. ^ “The Kushite Conquest of Egypt”. Ancientsudan.org. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2010. ^ Shaw (2002) p. 383 ^ Bowman, Alan K (1996). Egypt after the Pharaohs 332 BC – AD 642 (ấn bản 2). Berkeley: University of California Press. tr. 25–26. ISBN 0-520-20531-6. ^ Stanwick, Paul Edmond (2003). Portraits of the Ptolemies: Greek kings as Egyptian pharaohs. Austin: University of Texas Press. ISBN 0-292-77772-8. ^ a b “Egypt”. Berkley Center for Religion, Peace, and World Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2011. See drop-down essay on "Islamic Conquest and the Ottoman Empire" ^ Kamil, Jill. Coptic Egypt: History and Guide. Cairo: American University in Cairo, 1997. p. 39 ^ El-Daly, Okasha (2005). Egyptology: The Missing Millennium. Luân Đôn: UCL Press. tr. 140. ^ a b c Abu-Lughod, Janet L. (1991) [1989]. “The Mideast Heartland”. Before European Hegemony: The World System A.D. 1250–1350. New York: Oxford University Press. tr. 243–244. ISBN 978-0-19-506774-3. ^ “Egypt – Major Cities”. Countrystudies.us. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013. ^ Donald Quataert (ngày 11 tháng 8 năm 2005). The Ottoman Empire, 1700–1922. Cambridge University Press. tr. 115. ISBN 978-1-139-44591-7. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2013. ^ “Icelandic Volcano Caused Historic Famine In Egypt, Study Shows”. ScienceDaily. ngày 22 tháng 11 năm 2006. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013. ^ Izzeddin, Nejla M. Abu (1981). Nasser of the Arabs: an Arab assessment. Third World Centre for Research and Publishing. tr. 2. ISBN 978-0-86199-012-2. ^ a b Baten, Jörg (2016). A History of the Global Economy. From 1500 to the Present. Cambridge University Press. tr. 217. ISBN 9781107507180. ^ Nejla M. Abu Izzeddin, Nasser of the Arabs, p 2. ^ Baten, Jörg (2016). A History of the Global Economy. From 1500 to the Present. Cambridge University Press. tr. 217, p.224 Figure 7.6: "Height development in the Middle East and the world (male)" and p.225. ISBN 9781107507180. ^ Anglo French motivation: Derek Hopwood, Egypt: Politics and Society 1945–1981. Luân Đôn, 1982, George Allen & Unwin. p 11. ^ De facto protectorate: Joan Wucher King, Historical Dictionary of Egypt. Metuchen, New Jersey, USA; 1984; Scarecrow. p 17. ^ “Treaty of Lausanne (1923): Article 17 of the treaty refers to Egypt and Sudan”. byu.edu. ^ Jankowski, James. Egypt, A Short History. tr. 111. ^ Jankowski, James. Egypt, A Short History. tr. 112. ^ “Egypt”. The World Factbook. CIA. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2011. ^ “The Emergency Law in Egypt”. International Federation for Human Rights. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2011. ^ Jesse Ferris (2013). Nasser's Gamble: How Intervention in Yemen Caused the Six-Day War and the Decline of Egyptian Power. Princeton University Press. tr. 2. ISBN 0-691-15514-3. during the 60's, "Egyptian economy went from sluggishness to the verge of collapse, ... society became less free, and Nasser's appeal waned considerably" ^ USMC Major Michael C. Jordan (1997). “The 1973 Arab-Israeli War: Arab Policies, Strategies, and Campaigns”. GlobalSecurity.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2009. ^ Vatikiotis, P.J. (1991). The history of modern Egypt: from Muhammad Ali to Mubarak (ấn bản 4.). Luân Đôn: Weidenfeld and Nicolson. tr. 443. ISBN 978-0-297-82034-5. ^ Amin, Galal. Egypt's economic predicament: a study in the interaction of external pressure, political folly, and social tension in Egypt, 1960–1990, 1995 ^ Cambanis, Thanassis (ngày 11 tháng 9 năm 2010). “Succession Gives Army a Stiff Test in Egypt”. The New York Times. Egypt. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011. ^ Dunne, Michele (January 2006). "Evaluating Egyptian Reform". Carnegie Papers: Middle East Series (66): 4. ^ Murphy, Caryle Passion for Islam: Shaping the Modern Middle East: the Egyptian Experience, Scribner, 2002, p.4 ^ “Mubarak throws presidential race wide open”. Business Today Egypt. ngày 10 tháng 3 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2005. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013. ^ “Democracy on the Nile: The story of Ayman Nour and Egypt's problematic attempt at free elections”. Weeklystandard.com. ngày 27 tháng 3 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011. ^ “Anger over Egypt vote timetable”. BBC News. ngày 20 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2011. ^ “Mubarak Resigns As Egypt's President, Armed Forces To Take Control”. Huffington Post. ngày 11 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013. ^ Kirkpatrick, David D. (ngày 11 tháng 2 năm 2010). “Mubarak Steps Down, Ceding Power to Military”. The New York Times. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011. ^ “Egypt crisis: President Hosni Mubarak resigns as leader”. BBC. ngày 11 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011. ^ Memmott, Mark (ngày 28 tháng 11 năm 2011). “Egypt's Historic Day Proceeds Peacefully, Turnout High For Elections”. Npr.org. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2013. ^ “Egypt's new president moves into his offices, begins choosing a Cabinet”. CNN. ngày 25 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2013. ^ “Think Again: The Muslim Brotherhood”. Al-Monitor. ngày 28 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2016. ^ Kirkpatrick, David D. (ngày 3 tháng 7 năm 2013). “Army Ousts Egypt's President; Morsi Denounces 'Military Coup'”. New York Times. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2013. ^ “Egypt protests: Hundreds killed after police storm pro-Morsi camps”. Australian Broadcasting Corporation. ngày 15 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2014. ^ “Abuse claims rife as Egypt admits jailing 16,000 Islamists in eight months”. The Independent. ngày 16 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2014. ^ “Egypt constitution 'approved by 98.1 percent'”. Al Jazeera English. ngày 18 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014. ^ “Egypt's El-Sisi bids military farewell, says he will run for presidency”. Ahram Online. ngày 26 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2014. ^ “Former army chief scores landslide victory in Egypt presidential polls”. The Guardian. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2014. ^ “Sisi elected Egypt president by landslide”. ngày 30 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2014.
    Read less

Phrasebook

Hai
اثنين
Số ba
ثلاثة
Bốn
أربعة
Năm
خمسة
Sáu
ستة
Bảy
سبعة
Tám
ثمانية
Chín
تسع
Mười
عشرة
Tôi xin lỗi
أنا آسف
Nhà vệ sinh ở đâu vậy?
أين الحمام؟
Internet
إنترنت

Where can you sleep near Ai Cập ?

Booking.com
487.370 visits in total, 9.187 Points of interest, 404 Đích, 3 visits today.