Central Park

( Công viên Trung tâm )

Công viên Trung tâm (Central Park) là một công viên công cộng ở trung tâm Manhattan thuộc Thành phố New York, Hoa Kỳ. Công viên ban đầu mở cửa năm 1857, trên 843 mẫu Anh (3,41 km²) trên khu đất thuộc sở hữu thành phố. Trong một cuộc thi thiết kế tổ chức năm 1858 nhằm cải tạo và mở rộng công viên, Frederick Law Olmsted và Calvert Vaux đoạt giải với bản thiết kế Greensward Plan. Ngay trong năm, người ta khởi công xây dựng theo thiết kế mới, tiếp tục công trình suốt thời Nội chiến, và hoàn tất năm 1873.

Công viên Trung tâm thuộc trong số các công viên đô thị lớn nhất thế giới, gần bằng Vườn Anh (München) (370 ha hay 910 mẫu Anh), so sánh với Bois de Vincennes (995 ha; 2,458 acres) và Bois de Boulogne (846 ha; 2,090 acres) của Paris, Richmond Park (955 ha; 2,360 acres) của Luân Đôn, Casa de Campo (1,723 ha; 4,256 acres) của Madrid, và Griffith Park (1,740 ha; 4,310 acres) của Los Angeles.

Năm 1962, công viên được chọn là Danh lam Lịch sử Quốc gia. Nó đã được ...Xem thêm

Công viên Trung tâm (Central Park) là một công viên công cộng ở trung tâm Manhattan thuộc Thành phố New York, Hoa Kỳ. Công viên ban đầu mở cửa năm 1857, trên 843 mẫu Anh (3,41 km²) trên khu đất thuộc sở hữu thành phố. Trong một cuộc thi thiết kế tổ chức năm 1858 nhằm cải tạo và mở rộng công viên, Frederick Law Olmsted và Calvert Vaux đoạt giải với bản thiết kế Greensward Plan. Ngay trong năm, người ta khởi công xây dựng theo thiết kế mới, tiếp tục công trình suốt thời Nội chiến, và hoàn tất năm 1873.

Công viên Trung tâm thuộc trong số các công viên đô thị lớn nhất thế giới, gần bằng Vườn Anh (München) (370 ha hay 910 mẫu Anh), so sánh với Bois de Vincennes (995 ha; 2,458 acres) và Bois de Boulogne (846 ha; 2,090 acres) của Paris, Richmond Park (955 ha; 2,360 acres) của Luân Đôn, Casa de Campo (1,723 ha; 4,256 acres) của Madrid, và Griffith Park (1,740 ha; 4,310 acres) của Los Angeles.

Năm 1962, công viên được chọn là Danh lam Lịch sử Quốc gia. Nó đã được quản lý từ hàng chục năm nay bởi Central Park Conservancy, một tổ chức tư nhân phi lợi nhuận, theo một hợp đồng ký với chính quyền thành phố. Mỗi năm tổ chức này đóng góp 83,5% ngân sách hằng năm 37,5 triệu USD của Công viên Trung tâm và sử dụng 80,7% thành phần nhân lực của Công viên.

Lịch sử 1857–1900  Frederick Law Olmsted, 1895 Angel of the Waters, (1873)

Công viên Trung tâm là một phần trong bản Quy hoạch năm 1811; Tuy nhiên, từ năm 1821 đến 1855, dân số Thành phố New York tăng gấp bốn lần. Khi thành phố mở rộng, người dân tìm đến những khu đất trống, chủ yếu là các nghĩa trang, để tránh tiếng ồn và sự náo nhiệt ở đô thị[1]

William Cullen Bryant, nhà thơ và biên tập viên tờ Evening Post (nay là New York Post), lên tiếng về việc cần thiết lập một công viên rộng lớn cho thành phố New York; đến năm 1844, Andrew Jackson Downing, kiến trúc sư cảnh quan đầu tiên ở Mỹ, khởi sự vận động thành lập công viên. Nhiều nhân vật thế lực ở New York cũng cảm thấy cần có một địa điểm rộng thoáng và thanh lịch, tương tự như Bois de Boulogne ở Paris hoặc Công viên Hyde ở Luân Đôn. Sau một nỗ lực bất thành trong năm 1850-51 nhằm quy hoạch khu Jones’s Wood, đến năm 1853 viện lập pháp New York quyết định dành khu đất rộng 700 mẫu Anh (280 ha) nằm giữa đường 59 và đường 106 để làm công viên, chỉ tính giá đất là hơn 5 triệu USD.

Năm 1857, Frederick Law Olmsted và Calvert Vaux phát triển bản "Quy hoạch Greensward" đoạt giải trong cuộc thi thiết kế tổ chức năm 1857. Olmsted xem công viên là có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì nó là công viên thực thụ đầu tiên của cả nước; có lẽ quan điểm này được khơi mở từ những chuyến đến thăm châu Âu của ông trong năm 1850.[2] Olmsted có ấn tượng sâu sắc về Công viên Birkenhead và Derby Arboretum tại Anh.

Thiết kế cũng chịu ảnh hưởng từ những nghĩa trang có cảnh quan đẹp như Mount Auburn (Cambridge, Massachusetts) và Green-Wood (Brooklyn, New York), những hình mẫu về sự tĩnh lặng, yên bình, và vẻ đẹp của thiên nhiên. Phát kiến nổi bật nhất trong bản thiết kế Công viên Trung tâm là những hệ thống "khép kín và biệt lập" dành riêng cho người đi bộ, đi xe đạp, cưỡi ngựa, và các phương tiện vận chuyển để vui chơi.

Vaux thiết kế 36 cây cầu với các loại vật liệu khác nhau từ đá thô, granite, đến thép đúc có hoa văn, không hề giống nhau. Ngoài Olmsted và Vaux, còn có những người khác cùng chịu trách nhiệm tiến hành bản "Quy hoạch Greensward": Jacob Wrey Mould (kiến trúc sư), Ignaz Anton Pilat (phụ trách mảng thực vật), George Waring (kỹ sư), và Andrew Haswell Green (chính trị gia).

 Bản đồ Công viên Trung tâm từ năm 1875

Trước khi xây dựng công viên, người ta cho giải tỏa và di dời khoảng 1 600 cư dân đang sinh sống trên khu đất,[3] hầu hết là những người nghèo khổ thuộc thành phần da đen được tự do, và người gốc Anh hoặc Ái Nhĩ Lan. Phần lớn sống trong những ngôi làng nhỏ.

Từ năm 1860 đến 1873, hầu hết những trở ngại đều được gỡ bỏ, việc xây dựng công viên cơ bản đã hoàn thành. Hơn 14 000 m³ đất màu được vận chuyển từ New Jersey do đất tại chỗ không đủ màu mỡ để trồng các loại thực vật theo bản Quy hoạch Greensward. Hơn bốn triệu cây cao, cây bụi, và các loại thực vật khác đại diện cho hơn 1 500 chủng loại được đem đến trồng tại công viên.

Lượng thuốc nổ được sử dụng để phát quang còn nhiều hơn trong trận Gettysburg trong cuộc Nội chiến Mỹ.[4]

Từ thập niên 1860, một đàn cừu được nuôi thả ở cánh đồng Sheep Meadow, nhưng đến năm 1934 người ta phải dời chúng đi nơi khác vì sợ chúng bị làm thịt do tay người dân New York, lúc ấy đang vật vã trong cơn Đại Suy thoái.[5]

1900–1960  Lâu đài Belvedere, Công viên Trung tâm, xây dựng năm 1869 đoạn cuối quảng trường ở giữa, năm 1901

Ngay sau khi hoàn thành, công viên mau chóng bị suy tàn. Một trong những nguyên nhân chính là công viên không có sự quan tâm của guồng máy chính trị Tammy Hall, khi ấy đang là lực lượng hùng mạnh tại New York.

Đến đầu thế kỷ 20, công viên lại đối đầu thêm những thử thách. Xe hơi trở nên phổ biến, gây ô nhiễm, và khiến người dân thay đổi thái độ. Không còn những công viên dành riêng cho người đi bộ và dã ngoại trong khung cảnh thiên nhiên tĩnh lặng, các môn thể thao và những trò vui chơi giải trí cũng bắt đầu chen chân giành chỗ. Sau khi Ủy ban Công viên Trung tâm bị giải tán năm 1870, Andrew Green từ bỏ đề án, và sau khi Vaux qua đời năm 1895, những nỗ lực bảo tồn công viên dần bị lãng quên, người ta không còn quan tâm đến việc trồng mới hoặc thay thế cây cối, cây bụi, và các loại thực vật khi chúng bị chết, cũng cùng chung số phận là những bãi cỏ bị tàn úa. Trong suốt vài thập niên, giới hữu trách chẳng chịu làm gì để hạn chế nạn phá hoại và xả rác trong công viên.

Theo những gì ghi lại trong quyển The Power Broker (1974) của nhà sử học Robert Caro:

Những bãi cỏ, không được chăm sóc, chỉ còn là những vùng trơ trọi đất, lởm chởm với cỏ dại, thành những ổ gà đầy bụi khi thời tiết khô ráo, và thành những hố bùn khi ẩm ướt.[6]

Song tất cả bắt đầu thay đổi khi ứng viên đảng Cộng hòa Fiorello La Guardia đắc cử Thị trưởng New York năm 1934. Ông sáp nhập năm phòng ban liên quan thành một đơn vị. Robert Moses được giao trách nhiệm làm sạch công viên. Moses, về sau trở thành nhân vật có thế lực nhất New York, nhận bàn giao một công trình trên thực tế chỉ còn là một đống hỗn độn.[7]

Trong vòng một năm, Moses xoay xở để tẩy uế Công viên Trung tâm và những công viên khác trong thành phố. Người ta bắt đầu trồng lại cỏ và hoa, thay thế các cây trồng đã chết, rửa sạch những bức tường, và sửa chữa những cây cầu. Một thay đổi ngoạn mục khác xảy ra khi Moses quyết định di dời Hoover Valley, một khu nhà ở tồi tàn, và biến nó thành một bãi cỏ rộng 30 mẫu Anh (12 ha) gọi là Great Lawn.[8] Một số công trình xây dựng và chỉnh trang cũng được tiến hành như tích nước cho Hồ Croton Lower, nhờ đó mà kiến tạo Great Lawn.

Mục tiêu kiến tạo một không gian tĩnh mịch của bản Quy hoạch Greensward kết hợp với viễn kiến của Moses về một công viên giải trí đa dạng với 19 sân chơi, 12 sân bóng đang được hình thành. Moses cũng xoay xở để tìm kiếm nguồn thu từ chương trình New Deal cũng như từ sự đóng góp của công chúng.

1960–1980  Một trong những cây cầu trong công viên, chúng không hề giống nhau.

Thập niên 1960 đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn đầy sự kiện ở Công viên Trung tâm, phản ánh những trào lưu chính trị và văn hóa của thời đại. Festival Shakespeare in the Park với Dàn nhạc Giao hưởng New York và Đoàn Opera Metropolitan trình diễn tại Nhà hát Delacorte (1961), các cuộc trình diễn mùa hè tổ chức ở Sheep Meadow, và Great Lawn. Cuối thập niên 1960, công viên trở thành địa điểm tổ chức các sự kiện văn hóa như Love-Ins và Be-Ins của thời kỳ này. Suốt thập niên 1970, tại công viên người ta tổ chức những buổi tụ tập, biểu tình, festival, và hòa nhạc với quy mô lớn chưa từng có.

Mùa hè năm 1966, John V. Lindsay, Thị trưởng New York (1966-73) ra lệnh cấm xe hơi trong Công viên Trung tâm vào những ngày cuối tuần để ưu tiên người đi xe đạp và khách tham quan, chính sách ấy vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay.[9]

Mặc dù số lượng khách tham quan gia tăng, việc Robert Moses rời khỏi công viên trong năm 1960 đánh dấu sự khởi đầu của giai đoạn suy thoái kéo dài hai mươi năm.[10] Thành phố New York cũng đang trải qua giai đoạn biến đổi về kinh tế và xã hội, khi nhiều cư dân bỏ khu vực nội thị để đến sinh sống ở ngoại ô nhằm tránh tệ nạn xã hội. Sở Quản lý Công viên, do bị cắt giảm ngân sách và thiếu nhân lực chuyên môn cao, tự xoay xở bằng cách mời gọi tất cả các hoạt động dịch vụ nhằm lôi kéo khách tham quan mà không quan tâm đến những ảnh hưởng tiêu cực; thêm vào đó là khâu quản lý bất cập và công tác bảo quản yếu kém làm tình hình càng tồi tệ hơn.

Đến giữa thập niên 1970, sự tắc tránh trong việc quản lý công viên làm trầm trọng thêm các vấn nạn của thành phố. "Quản lý tồi cùng với bảo quản yếu kém trong nhiều năm đã biến một kiệt tác của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan thành một đống bẩn thỉu vào ban ngày và một ổ tội phạm vào ban đêm,"[11] Tình trạng của công viên ngày càng tệ hại hơn, rồi đến giai đoạn bùng phát nạn phá hoại tài sản công, tệ cát cứ, và các hoạt động ngầm khác.

Vào thời điểm bắt đầu xuất hiện các nhóm công dân tình nguyện kêu gọi cải tạo công viên bằng cách gây quỹ và vận động các hoạt động thiện nguyện. Một trong những nhóm này, Quỹ Cộng đồng Công viên Trung tâm, mở một cuộc nghiên cứu về công tác quản lý công viên, đưa ra hai kết luận:

Cần thiết lập một vị trí lãnh đạo tập trung, chịu trách nhiệm giám sát cả việc lập kế hoạch và điều hành công viên. Lập một ban công dân kiểm tra.

Năm 1979 Ủy viên phụ trách các công viên, Gordon Davis, thành lập Văn phòng Trưởng ban Công viên Trung tâm, và bổ nhiệm giám đốc cho một tổ chức công dân, Ban Đặc nhiệm Công viên Trung tâm, vào chức vụ này. Năm sau, Ban Bảo tồn Công viên Trung tâm cũng được thành lập với mục đích hỗ trợ văn phòng và những đề xuất của Trưởng ban.

 Công viên Trung tâm năm 20041980 đến nay  The Mall, quảng trường ở giữa

Dưới sự lãnh đạo của Ban Bảo tồn Công viên Trung tâm, tiến trình cải tạo công viên khởi đầu với những bước khiêm tốn nhưng đầy ý nghĩa, làm lộ rõ những khiếm khuyết và bất cập của cơ cấu và nguồn lực hiện hành của Sở Quản lý Công viên.

Đến đầu thập niên 1980, Ban Bảo tồn tiến hành kế hoạch phục hồi công viên với sự hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn bên ngoài. Nó tạo sức bật cho các đề án thăm dò được thành phố cung cấp ngân quỹ, chuẩn bị cho một kế hoạch toàn diện nhằm tái thiết công viên.

Kế hoạch phục hồi công viên được tiến hành đồng bộ với tiến trình tái cơ cấu bộ máy hành chính, theo đó công viên được chia thành hai khu vực, mỗi khu vực có một giám sát viên chịu trách nhiệm bảo tồn những mảng đã được phục hồi.

Hệ thống quản lý theo khu vực được nhân rộng lên đến bốn mươi chín khu vực. Mỗi khu vực trong công viên thực hiện chức trách chăm sóc, bảo quản hằng ngày.

Ngày 23 tháng 10 năm 2012, quản lý quỹ đầu tư và tỷ phú John A. Paulson công bố một quà tặng 100 triệu USD đến Ban Bảo tồn Công viên Trung tâm, cũng là phần hiến tặng tiền tệ lớn nhất đối với hệ thống công viên thành phố New York.[12]

^ John Emerson Todd, Frederick Law Olmsted (Boston: Twayne Publishers: Twayne’s World Leader Series) 1982:73; see the history of Green-Wood Cemetery. ^ Olmsted letter to Parke Godwin ngày 1 tháng 8 năm 1858. See Empire City The Making and Meaning of the New York City Landscape http://www.temple.edu/tempress/titles/714_reg.html Lưu trữ 2012-03-08 tại Wayback Machine ^ Peter H. Rossi, Down and Out in America: The Origins of Homelessness, University of Chicago Press, 1989, ISBN 0-226-72828-5. Rossi states that part of the impetus to schemes such as Central Park and others was to remove the eyesore of shanty towns. ^ Roy Rosenzweig and Elizabeth Blackmar, The Park and the People: a history of Central Park, 1992:150. ^ pbs.org – New York: A Documentary Film ^ Caro, Robert (1974). The Power Broker. ^ “Robert Moses and a New Deal”. Centralparkhistory.com. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2014. ^ Robert A.M. Stern & Gregory Gilmartin, Thomas Mellins (1987). New York 1930. Rizzoli New York. tr. 710. ISBN 978-0-8478-3096-1.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) ^ A pioneer of urban cycling Jim's Bike Blog - Accessed ngày 22 tháng 6 năm 2012. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2012. ^ Blonsky, Douglas. "Saving the Park: a key to NYC's revival". The New York Post, ngày 3 tháng 11 năm 2007 Op-Ed page. ^ Lisa W. Foderaro (ngày 23 tháng 10 năm 2012). “A $100 Million Thank-You for a Lifetime's Central Park Memories”. The New York Times. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2012.
Photographies by:
Mark Ryan - GFDL
Statistics: Position
2296
Statistics: Rank
54113

Viết bình luận

Câu hỏi này dùng để kiểm tra xem bạn là người hay là chương trình tự động.

Security
274389516Click/tap this sequence: 7821

Google street view

Where can you sleep near Công viên Trung tâm ?

Booking.com
487.374 visits in total, 9.187 Points of interest, 404 Đích, 7 visits today.